Bản án 21/2019/HS-PT ngày 22/01/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 21/2019/HS-PT NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 417/2018/TLPT-HS, ngày 10/12/2018 đối với bị cáo Đoàn Ngọc H, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Đoàn Ngọc H, sinh năm 1992, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Ngọc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1957; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn L - Văn phòng Luật sư CT, Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

Người bị hại: Bà Nguyễn Thị H1; địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Nguyễn Thị H1 (địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk) có hai người cháu tên là Nguyễn Thị Như Q, sinh năm 1989, địa chỉ: Thôn MT, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, sử dụng sim điện thoại có số là 0986015xxx và Huỳnh Thị Tố Q, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn M, xã J, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, trước đây dùng sim số điện thoại là 0935750xxx. Chị H1 lưu cả hai số điện thoại của Nguyễn Thị Như Q và Huỳnh Thị Tố Q trong danh bạ điện thoại của chị H1 đều mang tên là cháu Q. Đến khoảng giữa năm 2014, Huỳnh Thị Tố Q đã mất điện thoại cùng với số sim 0935750xxx, nhưng chị Tố Q không báo cho chị H1 biết nên trong danh bạ của chị H1 sử dụng vẫn lưu số điện thoại 0935750xxx là cháu Q.

Ngày 29/4/2018, Nguyễn Thị Như Q dùng số điện thoại 0986015xxx, gọi cho chị H1 để lấy lại số tiền 20.000.000 đồng mà chị Như Q đã gửi chị H1 giữ hộ trước đây. Ngày 02/5/2018, chị H1 nhắn tin cho chị Như Q để hỏi số tài khoản chuyển tiền nhưng lại nhắn nhầm vào số điện thoại của chị Huỳnh Thị Tố Q đã dùng trước đây là số 0935750xxx, tại thời điểm này Đoàn Ngọc H đang sử dụng số điện thoại 0935750xxx. Sau khi đọc tin nhắn, H biết chị H1 nhắn cho cháu của chị H1, nhưng đã gửi tin nhắn đến số của H, nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của chị H1. Sau đó H sử dụng số sim 0935750xxx nhắn tin trả lời: “Gửi số tài khoản 0103587xxx”, số tài khoản này của Phan Phương V, địa chỉ: Số C đường Y, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk cho H mượn sử dụng vào năm 2013. Khi nhận được tin nhắn do H gửi đến thì chị H1 có hỏi số tài khoản của ai thì H nhắn tin trả lời là số tài khoản của bạn con nên chị H1 đã tin tưởng H là cháu Q và chuyển số tiền 20.000.000 đồng vào số tài khoản do H gửi đến. Sau đó, H tiếp tục dùng sim 0935750xxx giả danh là Q (cháu chị H1), nhắn tin cho chị H1 hỏi vay tiền hai lần, cụ thể: Ngày 16/5/2018, H hỏi vay số tiền 7.000.000 đồng và ngày 20/5/2018, hỏi vay 2.000.000 đồng. Do tin tưởng là cháu Q vay tiền nên chị H1 đã đồng ý cho vay và chuyển vào tài khoản do H gửi đến. Tổng cộng ba lần chị H1 đã chuyển vào tài khoản do H gửi đến số tiền 29.000.000 đồng, số tiền này H đã dùng vào việc tiêu dùng cá nhân hết. Trong khoảng thời gian từ ngày 20/5/2018 đến ngày 26/5/2018, H tiếp tục nhắn tin hỏi thăm sức khỏe chị H1 và lấy cớ tiếp tục hỏi vay để chiếm đoạt tiền của chị H1, tuy nhiên thông qua việc nhắn tin chị H1 nghi ngờ người nhắn tin không phải là cháu Nguyễn Thị Như Q nên chị H1 đã tìm hiểu và biết được số điện thoại 0935750xxx là của Huỳnh Thị Tố Q nhưng chị Q không còn dùng nữa. Ngày 28/5/2018 chị H1 đã viết đơn trình báo sự việc gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk và Đoàn Ngọc H đã đến cơ quan công an đầu thú.

Đối với anh Phan Phương V, là người đã cho Đoàn Ngọc H mượn thẻ ATM của tài khoản số 0103587xxx nhưng anh V không biết H dùng tài khoản ATM làm công cụ phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh V là phù hợp.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Đoàn Ngọc H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 28/6/2018 đến ngày 07/7/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, người bị hại theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/11/2018 bị cáo Đoàn Ngọc H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đoàn Ngọc H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đoàn Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội. Mức hình phạt 09 tháng tù mà bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo là đã tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, đồng thời bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng “Phạm tội hai lần trở lên” và tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Ngọc H, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt; áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc H 09 tháng tù; các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa cho rằng: Bị cáo đã ra tự thú nhưng cấp sơ thẩm không xem xét, đây là tình tiết giảm nhẹ mới, đồng thời do người bị hại có sự chủ quan, tạo điều kiện cho bị cáo phạm tội; sau khi sự việc bị phát hiện, bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại và đã được bị hại bãi nại; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo đồng ý với lời bào chữa mà Luật sư đã trình bày và không tranh luận, bào chữa gì thêm.

Qua tranh luận đối đáp, đại diện Viện kiểm sát, Luật sư bào chữa và bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày trên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai của bị cáo Đoàn Ngọc H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 02/5/2018, ngày 16/5/2018 và ngày 20/5/2018, bị cáo Đoàn Ngọc H đã dùng thủ đoạn gian dối, giả danh chị Nguyễn Thị Như Q, là cháu của chị Nguyễn Thị H1, để nhắn tin điện thoại với chị Nguyễn Thị H1, làm cho chị H1 tin tưởng và chuyển tiền vào tài khoản cho H, tổng cộng 03 lần bị cáo đã chiếm đoạt của chị H1 số tiền là 29.000.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đoàn Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ pháp lý và đúng người, đúng tội.

 [2] Đối với ý kiến của Luật sư bào chữa trình bày các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng là có cơ sở. Tuy nhiên việc Luật sư cho rằng bị cáo đã ra tự thú nên phải được hưởng tình tiết giảm nhẹ này và đây là tình tiết giảm nhẹ mới, là không đúng và không có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ: Sau khi chị Nguyễn Thị H1 đã làm đơn trình báo sự việc vào ngày 28/5/2018, thì đến ngày 28/6/2018 bị cáo mới đến cơ quan Công an khai nhận hành vi phạm tội. Như vậy, khi hành vi phạm tội đã bị phát hiện thì bị cáo mới đầu thú, khai nhận và Cơ quan Công an đã lập Biên bản người phạm tội ra đầu thú nên bị cáo chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự và bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ này khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

 [3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Đoàn Ngọc H, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người bị hại, đồng thời còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an chung của xã hội, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện. Mức hình phạt 09 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra; bị cáo phạm tội với một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội từ hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 và khi quyết định hình phạt, bản án sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho người bị hại và người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ cho bị cáo; phạm tội gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã ra đầu thú và gia đình bị cáo là gia đình có công với cách mạng. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ và đúng pháp luật. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt là đúng đắn.

 [4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Đoàn Ngọc H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

 [5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Ngọc H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Ngọc H 09 (chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 28/6/2018 đến ngày 07/7/2018.

 [2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đoàn Ngọc H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

 [3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-PT ngày 22/01/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:21/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về