TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 21/2019/HS-PT NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 16 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 547/2018/HSPT ngày 06/12/2018 đối với bị cáo Võ Trọng H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 164/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Trọng H, sinh ngày 24/7/ 1991; tại tỉnh LA; cư trú: Ấp 4, xã MQT, huyện ĐH, tỉnh LA; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: không rõ; con bà Võ Thị M; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 05/4/2018 đến ngày 11/4/2018, thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17h30’ ngày 05/4/2018, trên Quốc lộ 01 thuộc địa phận ấp Hậu, xã TAH, huyện CC, Công an huyện CC phát hiện bắt quả tang Võ Trọng H đang điều khiển xe ô tô biển số 51F-473.xx theo hướng từ huyện CC đi huyện M, trên xe chở 12.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, bao gồm: 10.200 bao nhãn hiệu Jet, 1.800 bao nhãn hiệu Hero.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CC, Võ Trọng H khai nhận: Vào khoảng 14h55’ ngày 05/4/2018, H nhận được điện thoại của một phụ nữ tên Hiền quen biết từ trước (không rõ lai lịch, địa chỉ) thuê H chở thuốc lá lậu từ khu vực ấp 1, xã MQT, huyện ĐH, tỉnh LA đến khu vực ngã ba G, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 800.000 đồng, H đồng ý. Do H là lái xe thuê cho anh Trần Văn V (sinh năm 1988) nên H đến nhà anh V tại ấp 4, xã MQT, huyện ĐH, tỉnh LA lấy xe ô tô biển số 51F-473.xx và nói với anh V đi chở khách. Sau khi lấy xe ô tô, H điều khiển xe đến khu vực ấp 1, xã MQT, huyện ĐH, tỉnh LA đến điểm hẹn. Tại đây, H nhận 12.000 gói thuốc lá nhập lậu chứa trong 24 bao nylon do khoảng 10 thanh niên (không rõ lai lịch) chở trên xe máy đến giao. Sau khi nhận thuốc lá nhập lậu xong, H điều khiển xe ô tô đến khu vực ngã ba Giồng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đang di chuyển đến Quốc lộ 01 thuộc địa phận ấp Hậu, xã TAH, huyện CC thì bị Công an huyện CC phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
+Vật chứng thu giữ: 10.200 bao thuốc lá nhập lậu nhãn hiệu Jet, 1.800 bao thuốc lá nhập lậu nhãn hiệu Hero, 24 bao nylon màu xám và 01 xe ô tô biển số 51F-473.07, nhãn hiệu Toyota, loại Innova, màu đồng, số khung RL4JW8EM7H3228134, số máy 1TR267337.
Đối với Trần Văn V là người giao xe ô tô cho H nhưng không biết việc H sử dụng xe để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu nên không có cơ sở xử lý V.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 164/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Tuyên bố bị cáo Võ Trọng H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Võ Trọng H 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ là 06 ngày (từ ngày 05/4/2018 đến ngày 11/4/2018).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/10/2018, bị cáo Võ Trọng H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính nuôi mẹ già.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Trọng H rút một phần yêu cầu kháng cáo, chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt vì đã nhận thức được hành vi sai phạm của mình và mong muốn được khoan hồng.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Trọng H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo H kháng cáo trong thời gian luật định và hợp lệ nên cần được xem xét. Khi quyết định hình phạt án sơ thẩm có nhận định về nhân thân bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự (là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) nhưng chưa áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có thiếu sót, cấp sơ thẩm cần lưu ý trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, mức án 06 (sáu) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo Võ Trọng H là thỏa đáng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Trọng H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Trọng H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận bổ sung, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt vì đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, cho bị cáo cơ hội sớm chấp hành xong bản án và lại cuộc đời.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Trọng H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm, phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và các tài liệu, chứng cứ: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ tài liệu – đồ vật, lời khai người làm chứng cùng các biên bản về hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án.
Đã có đủ cơ sở để kết luận: Muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo Võ Trọng H đã nhận 12.000 gói thuốc lá nhập lậu chứa trong 24 bao nylon do khoảng 10 thanh niên (không rõ lai lịch) chở trên xe máy đến giao để vận chuyển theo yêu cầu của một đối tượng phụ nữ tên Hiền (không rõ lai lịch) nhằm được Hiền trả công 800.000 đồng hưởng lợi. Sau khi nhận thuốc lá nhập lậu xong, H điều khiển xe ô tô đến khu vực ngã ba G, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh để giao hàng theo yêu cầu của H. Đến khoảng 17h30’ ngày 05/4/2018, khi điều khiển xe đi đến Quốc lộ 01 thuộc địa phận ấp Hậu, xã TAH, huyện CC thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng toàn bộ vật chứng là 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, bao gồm: 10.200 bao nhãn hiệu Jet và 1.800 bao hiệu Hero.
Hành vi của bị cáo Võ Trọng H là nguy hiểm cho xã hội, không nhưng xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế mà còn gây ảnh hưởng đến chính sách quản lý việc sản xuất, kinh doanh thuốc lá điếu của Nhà nước. Bị cáo Võ Trọng H là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng với động cơ vụ lợi bất chính vẫn cố ý phạm tội.
Xét, bị cáo Võ Trọng H đã vận chuyển số lượng hàng cấm là 12.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, bao gồm: 10200 bao nhãn hiệu Jet và 1800 bao nhãn hiệu Hero; nên đã phạm tội thuộc trường hợp “thuốc lá điếu nhập lậu từ 4.500 bao trở lên”, là tình tiết tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Với số lượng thuốc lá điếu nhập lậu và hành vi của bị cáo nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Võ Trọng H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/10/2018, bị cáo Võ Trọng H có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn luật định và hợp lệ.
Về nội dung kháng cáo: Tại phiên tòa, bị cáo rút một phần yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt, là phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nhưng chỉ áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có thiếu sót. Tuy nhiên, mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Võ Trọng H 06 (sáu) năm tù là chưa thỏa đáng.
Xét về tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo Võ Trọng H: phạm tội lần đầu thuộc trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng cũng như chưa được hưởng lợi; tại phiên tòa, bị cáo xuất trình xác nhận gia đình có hoàn cảnh khó khăn, là động chính đang nuôi dưỡng mẹ đã lớn tuổi; là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên có cân nhắc để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt đáng ra phải chịu. Do đó, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Trọng H và sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo.
Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các vấn đề khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Trọng H và sửa bản án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo Võ Trọng H phạm tội: "Vận chuyển hàng cấm" Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: bị cáo Võ Trọng H 05 (năm) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt bị cáo đi thi hành án và được trừ thời gian đã bị tạm giữ trước 06 ngày (từ ngày 05/4/2018 đến ngày 11/4/2018).
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 21/2019/HS-PT ngày 16/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 21/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về