Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Ngô Quang M – Sinh năm 19xx - Địa chỉ: Đường H, phường V, quận K, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

* Bị đơn: Phan Thị Kim N – Sinh năm 19yy - Địa chỉ: Đường S, phường C, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 10/4/2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Ngô Quang M trình bày:

Ông và bà Phan Thị Kim N kết hôn vào năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại địa chỉ Đường H, phường V, quận K, thành phố Đà Nẵng, là nhà của cha mẹ ông. Vợ chồng chung sống đến khoảng năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng về tính tình và quan điểm sống, việc làm ăn thất bại dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Năm 2014 bà N bỏ về nhà mẹ sống và từ đó đến nay vợ chồng mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau. Tại phiên tòa, ông Quang M xác định hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên ông Quang M yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Về hôn nhân: Ông Quang M yêu cầu được ly hôn với bà Phan Thị Kim N.

- Về con chung: Ông Quang M xác định vợ chồng có 03 con chung là Ngô Quang A - sinh ngày 06/11/ 1994, Ngô Thị Kim O – sinh ngày 12/11/2001 và Ngô Quang B – sinh ngày 15/6/2004. Cháu A đã đủ tuổi thành niên. Khi ly hôn, ông Ngô Quang M có nguyện vọng giao cháu O và cháu B cho bà Phan Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng; ông Quang M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/02 con (1.000.000 đồng/tháng/con).

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông Quang M xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bà Phan Thị Kim N tham gia tố tụng để giải quyết vụ án nhưng bà N đều vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến nên không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là tuân thủ đúng các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn là bà Phan Thị Kim N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt. Về nội dung, đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Chấp nhận yêu cầu của ông Ngô Quang M về việc ly hôn với bà Phan Thị Kim N; giao hai con chung cho bà N nuôi dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con như ông Quang M yêu cầu; tài sản chung và nợ chung không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Thẩm quyền giải quyết vụ án: Nơi cư trú của bà Phan Thị Kim N tại Đường S, phường C, quận L, thành phố Đà Nẵng nên vụ án do Tòa án nhân quận Hải Châu thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự - Bị đơn là bà Phan Thị Kim N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Kim N là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Ngô Quang M và bà Phan Thị Kim N tự nguyện kết hôn vào năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng (Chứng nhận kết hôn số 100, quyển I/93 ngày 12/01/1994). Hôn nhân giữa ông Quang M và bà Kim N đảm bảo các điều kiện cũng như thủ tục theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Ngô Quang M kiên quyết xin ly hôn với bà Phan Thị Kim N. Căn cứ vào lời trình bày của đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Trong quá trình chung sống, ông Quang M và bà Kim N đã phát sinh mâu thuẫn từ khoảng năm 2013, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Do mâu thuẫn kéo dài không khắc phục được nên vợ chồng sống mỗi người một nơi từ năm 2014 đến nay. Điều này chứng minh tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông Ngô Quang M xin ly hôn là có căn cứ. Mặt khác, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bà Phan Thị Kim N đến để hòa giải nhưng bà Kim N vẫn vắng mặt chứng tỏ bà Kim N không tha thiết níu kéo cuộc hôn nhân này. Vì vậy, Tòa án căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Ngô Quang M.

[2.2] Về con chung: Ông Ngô Quang M xác định ông và bà Phan Thị Kim N có 03 con chung là Ngô Quang A - sinh ngày 06/11/ 1994, Ngô Thị Kim O – sinh ngày 12/11/2001 và Ngô Quang B – sinh ngày 15/6/2004. Khi ly hôn, ông Ngô Quang M có nguyện vọng giao cháu O và cháu B cho bà Phan Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng. Tòa án xét thấy: Cháu Ngô Quang A đã đủ tuổi thành niên nên Tòa án không xem xét việc giao cháu cho ai chăm sóc, nuôi dưỡng. Hai cháu Ngô Thị Kim O và Ngô Quang B hiện nay đang sống với bà Kim N, từ khi vợ chồng không còn chung sống với nhau đến nay hai cháu đều do bà Kim N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; đồng thời cháu O và cháu B cũng có nguyện vọng được sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Do đó, Tòa án quyết định giao hai cháu Ngô Thị Kim O và Ngô Quang B cho bà Kim N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, phù hợp với nguyện vọng của con chung, đảm bảo cho các cháu có cuộc sống ổn định để học tập và phát triển toàn diện.

Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Phan Thị Kim N không có ý kiến hay yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con; về phía ông Ngô Quang M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/02 con. Tòa án xét thấy việc cấp dưỡng nuôi con của ông M xuất phát từ trách nhiệm và sự tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật, phù hợp với thu nhập thực tế của ông M nên chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Ngô Quang M xác định vợ chồng không có nên không đề cập giải quyết.

[3] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng ông Ngô Quang M phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điều 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Quang M đối với bà Phan Thị Kim N.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Ngô Quang M được ly hôn với bà Phan Thị Kim N.

2. Về con chung:

- Giao 02 con chung là Ngô Thị Kim O – sinh ngày 12/11/2001 và Ngô Quang B – sinh ngày 15/6/2004 cho bà Phan Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng.

- Ông Ngô Quang M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 2.000.000 đồng/02 con (1.000.000 đồng/tháng/con). Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày bà Phan Thị Kim N có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Ngô Quang M chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì ông Ngô Quang M phải trả lãi đối với số tiền chậm trả với lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Sau khi ly hôn, các bên đương sự vẫn có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Bên không nuôi con có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên có quyền làm đơn xin thay đổi nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Ngô Quang M xác định không có nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng ông Ngô Quang M phải chịu, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông M đã nộp theo biên lai thu số 0007044 ngày 02/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu. Ông Ngô Quang M còn phải nộp số tiền án phí là 300.000 đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Ông Ngô Quang M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bà Phan Thị Kim N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về