Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 26/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 122/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXX-ST ngày 26 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Thanh T, sinh năm 1975.

Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn B, xã M, huyện P, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1989.

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã M, huyện P, Thành phố Hà Nội.

Chỗ ở: Số 46 Đại Lộ Đ, khu Công nghiệp V1, phường B1, thị xã A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Bùi Thanh T trình bày:

Anh với chị Nguyễn Thị Kim P kết hôn với nhau từ tháng 9 năm 2008 là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện G, tỉnh B2 (Đăng ký kết hôn số 54, Quyển số 01 ngày 08/9/2008). Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn B, xã M, huyện P. Sau một thời gian chung sống vợ chồng bộc lộ sự không hòa hợp về tính cách, đặc biệt là bất đồng trong cuộc sống, trong sinh hoạt gia đình, trong công việc, trong làm ăn kinh tế, mỗi người một chí hướng, không tìm được tiếng nói chung, không có sự tôn trọng lẫn nhau, phần khác anh là người miền Bắc còn chị P là người miền Nam nên vợ chồng ngày không thể hòa hợp từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra to tiếng cãi vã, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn đã trầm trọng nên vợ chồng đã tự sống ly thân nhau từ cuối năm 2014 cho đến nay.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức... nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Bùi Kính N, sinh ngày 16/3/2009 và Bùi Gia K, sinh ngày 14/12/2013 hiện đều đang ở cùng anh; ly hôn anh đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung vợ chồng: Không có nên anh không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về công nợ chung vợ chồng: Không có nên anh không yêu cầu Tòa giải quyết Tại bản tự khai ngày 12/7/2019, bị đơn chị Nguyễn Thị Kim P trình bày:

Chị kết hôn với anh T năm 2008 là hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre. Sau khi kết hôn vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã nhau. Vợ chồng đã sống ly thân nhau đến nay là 05 năm. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và không có khả năng đoàn tụ nên chị đồng ý ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Bùi Kính N, sinh ngày 16/3/2009 và Bùi Gia K, sinh ngày 14/12/2013 đều ở cùng anh T kể từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay; ly hôn chị để anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và xin không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung vợ chồng: Không có nên chị không đề nghị Tòa giải quyết.

Về công nợ chung vợ chồng: Không có nên chị không đề nghị Tòa giải quyết.

Đi diện VKSND tham gia phiên toà xác định:

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định về thu thập chứng cứ, chấp hành đúng pháp luật tố tụng; Đương sự vắng mặt đã được Tòa án tạo mọi điều kiện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự; Đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình trong suốt quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà...

Do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và đã sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt được, mặt khác phía bị đơn chị Nguyễn Thị Kim P cũng đồng ý ly hôn nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của anh Bùi Thanh T và áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình xử: Cho anh Bùi Thanh T được ly hôn chị Nguyễn Thị Kim P; giao hai con chung là Bùi Kính N, sinh ngày 16/3/2009 và Bùi Gia K, sinh ngày 14/12/2013 cho anh Bùi Thanh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị Kim P; tài sản chung các bên đều không đề nghị Tòa xét nên không xét; công nợ chung các bên khẳng định không có nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở lời trình bày của các bên đương sự và quan điểm của Đại diện VKSND, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ kiện Hôn nhân và gia đình tranh chấp về ly hôn, bị đơn có địa chỉ cư trú tại thôn B, xã M, huyện P nên TAND huyện P thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn chị Nguyễn Thị Kim P: Quá trình tố tụng chị P đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, song chị P đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên việc xét xử vắng mặt chị P là đúng quy định tại các Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét quan hệ hôn nhân giữa annh Bùi Thanh T và chị Nguyễn Thị Kim P là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre (Đăng ký kết hôn số 54, Quyển số 01 ngày 08/9/2008). Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống cộng với tính cách không hòa hợp mỗi bên, không tôn trọng, tin tưởng nhau trong cuộc sống từ đó nảy sinh những xung đột mà đỉnh điểm mâu thuẫn vợ chồng từ cuối năm 2014 khiến cả hai đã tự sống ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm vợ chồng cho đến nay.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T và chị P đã đến mức trầm trọng bởi tình cảm vợ chồng thực sự không còn do hai bên chủ động sống ly thân nhau, đời sống vợ chồng không có cơ hội hàn gắn bởi từ hai phía đều không ai mong muốn đoàn tụ, mục đích hôn nhân là hạnh phúc gia đình vì thế không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, không còn ý nghĩa; quá trình tố tụng, trước yêu cầu ly hôn của anh T, phía chị P có quan điểm đồng ý ly hôn….Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu của anh T xin ly hôn chị P là có căn cứ, nên áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho anh T ly hôn chị P.

Về con chung: Anh T và chị P có 02 con chung là Bùi Kính N, sinh ngày 16/3/2009 và Bùi Gia K, sinh ngày 14/12/2013.

Hi đồng xét xử xét thấy kể từ khi vợ chồng ly thân từ năm 2014 cho đến nay các con chung do anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; nguyện vọng của con chung được tiếp tục ở cùng anh T; mặt khác phía chị P có quan điểm đồng ý để anh T nuôi dưỡng cả hai con chung. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cũng như tính ổn định trong sự phát triển của các con chung, cần chấp nhận yêu cầu của anh T về nuôi hai con chung và nghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Các bên đều không đề nghị Tòa xét nên Tòa không xét.

Về công nợ chung: Các bên đều khẳng định vợ chồng không có công nợ chung nên Tòa không xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn anh T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh T và bị đơn chị P có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57 Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho anh Bùi Thanh T được ly hôn chị Nguyễn Thị Kim P.

2. Về con chung: Giao hai con chung của anh Bùi Thanh T và chị Nguyễn Thị Kim P là Bùi Kính N, sinh ngày 16/3/2009 và Bùi Gia K, sinh ngày 14/12/2013, sinh ngày 16/4/2010 cho anh Bùi Thanh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tm miễn cho chị Nguyễn Thị Kim P việc cấp dưỡng nuôi con cho đến khi có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn Thị Kim P có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Các bên đều không đề nghị xem xét nên không xét.

4. Về án phí: Anh Bùi Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005407 ngày 11/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P. Anh T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành an được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 26/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về