Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 23/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 26/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2019/QĐST- HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Dương Thanh Th, sinh năm 1973; thường trú: Số 022 đường ĐH 406, khu phố B, phường K, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông W, sinh 1979; địa chỉ thường trú: Tổ 2, Khu phố 1, phường U, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: Đường số 5, Khu dân cư thương mại U, Tổ 1, Khu phố 3, phường U, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1970; thường trú: Số 022 đường ĐH 406, khu phố B, phường K, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/12/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Dương Thanh Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thanh Th và ông Nguyễn Thanh H chung sống với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục vào năm 1990. Tuy nhiên, đến năm 2003 vợ chồng mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh C và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 88, quyển số 01, ngày 13/6/2003.

Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc. Tuy nhiên, từ năm 2015, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không tìm được tiếng nói chung, ai cũng cho là mình đúng, người kia sai nên không có sự tôn trọng nhau. Ngoài ra, do ông H có quan hệ không lành mạnh và có con ngoài giá thú với người phụ nữ khác. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017. Hiện tại, ông H đã chung sống như vợ chồng với người phụ nữ đó. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Th yêu cầu ly hôn với ông H.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên V, sinh ngày 17/5/1992 và D, sinh ngày 25/4/2003. Hiện tại cả hai con đang sống với bà Thuý. Khi ly hôn bà Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên D, không yêu cầu ông Nguyễn Thanh H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con tên V đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông H thống nhất với lời trình bày của bà Th về thời gian chung sống và địa điểm đăng ký kết hôn. Ông H thừa nhận trong thời gian sống chung với bà Th thì hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống và ông H có quan hệ với bà Lương Mỹ F. Giữa ông H và bà F có một con sinh năm 2016. Tuy nhiên, ông H không chung sống như vợ chồng với bà F mà chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau. Ông H và bà Thuý sống ly thân với nhau từ tháng 02/2019 cho đến nay. Hiện nay ông H vẫn yêu thương vợ, con nên không đồng ý ly hôn với bà Th.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên V, sinh ngày 17/5/1992 và D, sinh ngày 25/4/2003. Nếu phải ly hôn, ông Nguyễn Thanh H đồng ý để bà Dương Thanh Th được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên D. Đối với con tên V đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Do nguyên đơn bà Dương Thanh Th không yêu cầu nên ông Nguyễn Thanh H không có ý kiến.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: Trong quá trình sống chung sống ông H và bà Th có tạo lập được nhiều tài sản chung và cũng có nhiều khoản nợ chung. Tuy nhiên, ông H không có đơn phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết trong cùng vụ án này.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) chi nhánh Bình Dương có Thông báo số 13/TB-BDU ngày 21/02/2019 yêu cầu ông Nguyễn Thanh H và bà Dương Thanh Th có nghĩa vụ thực hiện thanh toán nợ tại MB Bình Dương. Tuy nhiên, ông H và bà Thuý đã trả hết nợ cho nên ngày 03/5/2019, MB Bình Dương có Thông báo số 21/TB-BDU về việc chấm dứt nghĩa vụ nợ của ông Nguyễn Thanh H và bà Dương Thanh Th.

Tại Bản tự khai ngày 22/02/2019 cháu D trình bày nguyện vọng nếu cha mẹ ly hôn thì cháu muốn được sống với bà Th.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU phát biểu tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thanh Th và ông Nguyễn Thanh H chung sống trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh C theo Giấy chứng nhận kết hôn số 88, Quyển số 01, cấp ngày 13/6/2003 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng bà Th và ông H đã xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2018. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống và do ông Nguyễn Thanh H có con riêng với người phụ nữ khác. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Dương Thanh Th được ly hôn với ông Nguyễn Thanh H.

+ Về việc nuôi con chung: Vợ chồng bà Th và ông H có 02 con chung tên V, sinh ngày 17/5/1992 và D, sinh ngày 25/4/2003. Hiện tại các con đang sống chung với mẹ. Bà Th yêu cầu được quyền nuôi con chung tên D là phù hợp với nguyện vọng của cháu Huỳnh và phù hợp quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao cho bà Th được nuôi dưỡng con chung tên D. Đối với cháu V đã đủ 18 tuổi các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Dương Thanh Th không yêu cầu ông Nguyễn Thanh H cấp dưỡng nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

+ Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 - Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bà Dương Thanh Th có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thanh H và yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn. Đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo lời trình bày của các đương sự và Biên bản xác minh ngày 04/01/2019 của Toà án, bị đơn ông Nguyễn Thanh H có đăng ký thường trú và hiện đang cư trú tại địa chỉ: Số 022 đường ĐH 406, khu phố B, phường K, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên toà, người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là ông W vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Nguyên đơn cũng đồng ý xét xử vắng mặt ông W. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông W.

- Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Dương Thanh Th yêu cầu được ly hôn, bị đơn ông Nguyễn Thanh H không đồng ý ly hôn; Hội đồng xét xử thấy:

[1.1] Bà Dương Thanh Th và ông Nguyễn Thanh H là những người đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh C và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 88, quyển số 01, cấp ngày 13/6/2003 cho nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn từ lâu. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm và do ông Nguyễn Thanh H có quan hệ không lành mạnh và có con ngoài giá thú với người phụ nữ khác. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

[1.2] Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[1.3] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Dương Thanh Th và ông Nguyễn Thanh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Ông H không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được biện pháp hoà giải để vợ chồng trở lại đoàn tụ hạnh phúc. Yêu cầu ly hôn của bà Thuý là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung:

[2.1] Vợ chồng bà Th và ông H có 02 con chung tên V, sinh ngày 17/5/1992 và D, sinh ngày 25/4/2003. Hiện tại các con đang sống chung với bà Th. Khi ly hôn bà Th yêu cầu được quyền nuôi con chung tên D.

[2.2] Khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[2.3] Xét thấy, yêu cầu được quyền nuôi con chung của nguyên đơn bà Dương Thanh Th không trái đạo đức xã hội, phù hợp với nguyện vọng của cháu Nguyễn Thuý Huỳnh và phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.4] Đối với cháu V đã đủ 18 tuổi, các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[2.5] Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Dương Thanh Th không yêu cầu ông Nguyễn Thanh H phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3] Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Dương Thanh Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 85 và Điều 86 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thanh Th về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” với bị đơn ông Nguyễn Thanh H như sau:

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thanh Th được ly hôn với ông Nguyễn Thanh H.

1.2 Về việc nuôi con chung: Giao cho bà Dương Thanh Th được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên D, sinh ngày 25/4/2003.

1.3 Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Dương Thanh Th không yêu cầu ông Nguyễn Thanh H phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Bà Dương Thanh Th và ông Nguyễn Thanh H đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Ông Nguyễn Thanh H được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Nguyễn Thanh H lạm dụng quyền đi lại thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Dương Thanh Th có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Nguyễn Thanh H. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.4 Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Dương Thanh Th phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm; khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014707, ngày 14/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU, bà Dương Thanh Th không phải nộp thêm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 23/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về