Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 14/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 137/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 319/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy N; nơi cư trú: Đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M; nơi ĐKHKTT: Đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại khu A6 trại giam Công an tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/4/2019, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Năm 2009, chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam. Anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 26 tháng 5 năm 2009 tại Uỷ ban nhân dân phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau trong quan điểm, lối sống, tính cách và anh Mạnh đã vi phạm pháp luật vì có hành vi mua bán trái phép chất ma túy dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng, đỉnh điểm nhất từ năm 2018 vợ chồng anh chị đã sống ly thân, không ai còn quan tâm đến nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Hiện anh Mạnh đang chấp hành án tại khu A6 trại giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, chị Nhung đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn M.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M có hai con chung là Nguyễn Mạnh Đ, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2007 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009. Ly hôn chị Nhung đề nghị giao cả hai con cho chị trực tiếp nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết..

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 10 tháng 4 năm 2019, bị đơn anh Nguyễn Văn M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Năm 2007, anh và chị Nguyễn Thị Thùy N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam. Anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 26 tháng 5 năm 2009 tại Uỷ ban nhân dân phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống kể từ sau khi cưới vợ chồng không có tiếng nói chung, hay phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau trong quan điểm, lối sống, tính cách nên vợ chồng anh đã sống ly thân, không ai còn quan tâm đến nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Hiện tại anh xác định tình cảm của anh đối với chị Nhung là không còn cho nên không thể sống chung được nữa. Nay chị Nhung có đơn xin ly hôn với anh Mạnh, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Mạnh đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Anh Nguyễn Văn M và chị Nguyễn Thị Thùy N có hai con chung là Nguyễn Mạnh Đ, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2007 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009. Vì lý do anh đang phải chấp hành án tại trại giam công an tỉnh Quảng Ninh. Ly hôn anh Mạnh đồng ý theo đề nghị của chị Nhung là giao cả hai con cho chị Nhung trực tiếp nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn M và chị Nguyễn Thị Thùy N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh Nguyễn Văn M đang chấp hành án tại khu A6 Trại giam Công an tỉnh Quảng Ninh nên không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng. Do vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy N vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện và bản tự khai và đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn M. Bị đơn anh Nguyễn Văn M vắng mặt có lý do, tại bản tự khai ngày 10/4/2019 anh Mạnh đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn M.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a khoản 1 Điều 203, khoản 1 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử xử: Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy N được ly hôn anh Nguyễn Văn M. Về việc nuôi con: Giao con chung Nguyễn Mạnh Đ, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2007 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009 cho chị Nguyễn Thị Thùy N trực tiếp nuôi đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Nguyễn Thị Thùy N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

[1] Đây là vụ án tranh chấp ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Văn M có nơi cư trú tại số 28/80 đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng, nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

+ Về thời hạn giải quyết vụ án:

[2] Ngày 05 tháng 4 năm 2019, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thụ lý vụ án; đến ngày 20 tháng 5 năm 2019, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của bị đơn:

[3] Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Văn M vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn M theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[4] Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M được xác lập từ năm 2007 là hoàn toàn tự nguyện. Anh chị có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 26 tháng 5 năm 2009. Vì vậy hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Căn cứ vào lời khai của chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M, lời khai của người làm chứng, nhận thấy: Quá trình chung sống vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M hòa thuận đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau trong quan điểm sống, lối sống và tính cách, gia đình hai bên đã hòa giải động viên nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng, đỉnh điểm nhất từ đầu năm 2018, anh chị đã sống ly thân, không ai còn quan tâm đến nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Do anh Nguyễn Văn M vi phạm pháp luật vì có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hiện đang phải chấp hành án tại khu A6 trại giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Nguyễn Thị Thùy N có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn M, anh Nguyễn Văn M đồng ý. Xét cuộc sống hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thùy N.

+ Về việc nuôi con:

[6] Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M có hai con chung là Nguyễn Mạnh Đ, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2007 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009. Hiện anh Mạnh đang chấp hành án tại khu A6 Công an tỉnh Quảng Ninh, các con của anh chị đang ở với chị Nhung. Ly hôn, chị Nhung đề nghị giao cả hai con cho chị trực tiếp nuôi, anh Mạnh đồng ý. Xét thỏa thuận trên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy, cần áp dụng các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận sự thỏa thuận về việc nuôi con giữa chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

+ Về tài sản chung:

[7] Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí:

[8] Chị Nguyễn Thị Thùy N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[9] Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a khoản 1 Điều 203, khoản 1 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy N được ly hôn anh Nguyễn Văn M.

- Về việc nuôi con: Chấp nhận sự thỏa thuận của chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M. Giao con chung Nguyễn Mạnh Đ, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2007 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009 cho chị Nguyễn Thị Thùy N trực tiếp nuôi đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về việc chia tài sản: Chị Nguyễn Thị Thùy N và anh Nguyễn Văn M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thùy N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Thùy N đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0015725 ngày 05 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị Thùy N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Nguyễn Thị Thùy N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Nguyễn Văn M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 14/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về