TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 08 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 160/2018/TLST-HNGĐ ngày 26/12/2018 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Thanh D, sinh năm: 1996, địa chỉ: Số nhà 111, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh B.
- Bị đơn: Anh Trương Công N, sinh năm: 1983, địa chỉ: Thôn 05, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn chị Hồ Thị Thanh D thể hiện: Chị và anh Trương Công N tự nguyện tìm hiểu rồi xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh B vào năm 2014. Anh chị chung sống ở Sài Gòn được một thời gian thì chị D về Bến Tre để sinh con. Khi con được 01 tuổi, chị có bồng con lên Sài Gòn sống cùng anh N được gần hai tháng, sau đó chị về lại Bến Tre vì lý do anh N không quan tâm đến cuộc sống của vợ con, vợ chồng anh chị có nhiều mâu thuẫn, bất hòa nên thường xuyên cãi vã, không có hạnh phúc. Anh chị đã không chung sống với nhau trong 03 năm nay. Hiện nay, anh N đã về quê ở Quảng Nam để sinh sống, chị không thể theo anh về Quảng Nam được. Vì vậy, chị cảm thấy cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.
Về con chung: Anh chị có một người con chung là cháu Trương Hồ Mộng N, sinh ngày 22/9/2014. Cháu Nghi sống cùng chị và gia đình ngoại ở Bến Tre từ khi sinh ra cho đến nay. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng nuôi con cho đến khi đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị không có yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo của bị đơn anh Trương Công N thể hiện: Anh thống nhất về việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Hồ Thị Thanh D. Anh thừa nhận trong thời gian chung sống anh có nhậu nhẹt, thiếu quan tâm vợ con. Hiện nay, anh đã về quê sinh sống và có công việc ở Đà Nẵng, còn chị D thì vẫn sống ở Bến Tre, anh chị không chung sống cùng nhau. Vì vậy, anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị D.
Về con chung: Tại phiên hòa giải, anh Nghê có nguyện vọng nuôi con, anh cũng không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, tại “Đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt đề ngày 20/02/2019” thì anh đồng ý giao con cho chị D nuôi và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh không có yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử (HĐXX) nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng; mặc dù vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị D và anh N; về nuôi con: đề nghị HĐXX giao cháu Trương Hồ Mộng N, sinh ngày 22/9/2014 cho chị Hồ Thị Thanh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi.
Anh Trương Công N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về hôn nhân: Việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa chị Hồ Thị Thanh D và anh Trương Công N dựa trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Qui, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre vào năm 2014 nên hôn nhân giữa chị D và anh N là hợp pháp. Sau một thời gian sống chung, cuộc sống vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh N thiếu quan tâm đến vợ con.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị D và anh N thuận tình ly hôn.
Xét thấy, chị D và anh N hiện nay không chung sống cùng nhau, cả hai anh chị thuận tình ly hôn nên mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, hạnh phúc vợ chồng đã thực sự tan vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, ghi nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị D và anh N.
[2.2]. Về nuôi con: Anh chị có một người con chung là cháu Trương Hồ Mộng N, sinh ngày 22/9/2014. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị D có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung. Anh N đồng ý với yêu cầu của chị D. Xét thấy, việc các bên đương sự thống nhất giao con cho chị D nuôi, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp, cần chấp nhận.
[2.3]. Về tài sản chung: Anh chị không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[2.4]. Về án phí: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hồ Thị Thanh D tự nguyện chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, Hội đồng xét xử thấy phù hợp, cần chấp nhận.
[2.5]. Từ những nhận định nêu trên, xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên cần phải chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, Điều 238; các Điều 55, 81, 82, 83, 84, 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, xử:
1. Về hôn nhân: Chị Hồ Thị Thanh D và anh Trương Công N thuận tình ly hôn.
2. Về con chung: Giao cháu Trương Hồ Mộng N, sinh ngày 22/9/2014 cho chị Hồ Thị Thanh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Anh Trương Công N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được ngăn cản họ thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó. Khi cần thiết, các bên có quyền làm đơn xin thay đổi việc nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Các bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Chị Hồ Thị Thanh D tự nguyện chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0004316 ngày 26/12/2018. Chị D đã nộp đủ án phí.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 08/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 21/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về