Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 05/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 800/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Phương T, sinh năm 1988; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã M, huyện K, thành phố H; nơi đăng ký tạm trú: Thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H; chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã P, huyện L, thành phố H; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1983; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã M, huyện K, thành phố H; nơi đăng ký tạm trú: Thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30 tháng 10 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn D vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện K, thành phố H. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh Nguyễn Văn D tại thôn 2, xã M, huyện K, thành phố H. Năm 2013 gia đình chị chuyển về sinh sống tại thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Nguyễn Văn D thường xuyên chơi cờ bạc, không chịu lao động làm ăn và không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Chị và bố mẹ đẻ anh Nguyễn Văn D đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn không thay đổi dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Nguyễn Văn D căng thẳng nhất từ tháng 01 năm 2018. Chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tại thôn V, xã P, huyện L, thành phố H sống từ tháng 01 năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Anh Nguyễn Văn D đang sinh sống cùng với bố mẹ đẻ tại thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H. Nay chị Bùi Thị Phương T khẳng tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Nguyễn Văn D không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

Về con chung: Chị Bùi Thị Phương T trình bày vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Hải H, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2012 và Nguyễn Đăng O, sinh ngày 29 tháng 10 năm 2014. Hiện nay chị đang trực tiếp nuôi hai con chung và từ khi vợ chồng chị sống ly thân nhau đến nay chị vẫn là người trực tiếp nuôi 02 con chung. Trường hợp chị và anh Nguyễn Văn D ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi cả hai con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bùi Thị Phương T không yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Phương T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn D đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện K, thành phố H phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Nguyễn Văn D không tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83  của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T.

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Phương T được ly hôn anh Nguyễn Văn D. Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Hải H, sinh ngày 08 tháng 4 năm2012 và Nguyễn Đăng O, sinh ngày 29 tháng  10 năm 2014 cho chị Bùi Thị Phương T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôicon chung không yêu cầu giải quyết. Về tài sản  chung, vay nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Về án phí: Chị Bùi Thị Phương T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Văn D có nơi cư trú tại thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H, Toà án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để anh Nguyễn Văn D có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T nhưng anh Nguyễn Văn D vắng mặt không có lý do. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện anh Nguyễn Văn D có đăng ký tạm trú tại thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H và vẫn đang sinh sống tại gia đình ở thôn 9, xã C, huyện K, thành phố H. Toà án đã triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là chị Bùi Thị Phương T và bị đơn là anhNguyễn Văn D.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Phương T và anh Nguyễn Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện K, thành phố H vào ngày 25 tháng 02 năm 2011 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng chị Bùi Thị Phương T và anh Nguyễn Văn D hoà thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị Bùi Thị Phương T trình bày do Nguyễn Văn D thường xuyên chơi cờ bạc, không chịu lao động làm ăn và không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Chị và bố mẹ anh Nguyễn Văn D đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn không thay đổi nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Nay chị Bùi Thị Phương T khẳng tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Nguyễn Văn D không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn D. Bị đơn là anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Văn D vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị Phương T. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Bùi Thị Phương T và anh Nguyễn Văn D do anh Nguyễn Văn D thường xuyên chơi cờ bạc, không chịu lao động làm ăn và không có trách nhiệm với gia đình, vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Bùi Thị Phương T và anh Nguyễn Văn D đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị Bùi Thị Phương T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn V, xã P, huyện L, thành phố H sống từ tháng 01 năm 2018 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Như vậy thể hiện quan hệ vợ chồng giữa chị Bùi Thị Phương T và anh Nguyễn Văn D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên hòa giải, phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do thể hiện anh Nguyễn Văn D không mong muốn hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị Phương T về việc xin ly hôn anh Nguyễn Văn D, cho chị Bùi Thị Phương T được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

[3] Về con chung: Chị Bùi Thị Phương T và anh Nguyễn Văn D có 02 con chung tên Nguyễn Hải H, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2012 và Nguyễn Đăng O, sinh ngày 29 tháng 10 năm 2014. Khi ly hôn chị Bùi Thị Phương T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi cả hai con chung. Anh Nguyễn Văn D không đến Tòa án trình bày ý kiến về con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần xem xét mọi mặt để đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện chị Bùi Thị Phương T đang trực tiếp nuôi 02 con chung và từ khi vợ chồng sống ly thân nhau đến nay chị Bùi Thị Phương T vẫn là người trực tiếp nuôi hai con chung. Xét việc nuôi 02 con chung của chị Bùi Thị Phương T đã ổn định, mặt khác anh Nguyễn Văn D không có ý kiến về con chung. Vì vậy căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị Phương T, giao hai con chung tên Nguyễn Hải H, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2012 và Nguyễn Đăng O, sinh ngày 29 tháng 10 năm 2014 cho chị Bùi Thị Phương T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bùi Thị Phương T không yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Phương T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Nguyễn Văn D chưa có ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án , chị Bùi Thị Phương T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chị Bùi Thị Phương T được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao 02 chung tên Nguyễn Hải H, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2012 và Nguyễn Đăng O, sinh ngày 29 tháng 10 năm 2014 cho chị Bùi Thị Phương T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bùi Thị Phương T không yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị Phương T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000079 ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố H. Chị Bùi Thị Phương T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 05/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về