Bản án 21/2018/HS-ST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 21/2018/HS-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2018/QĐXXST-HS, ngày 23/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Anh Đ – Sinh năm 1974 tại: Yên Lạc, Vĩnh Phúc.

- Nơi ĐKHKTT: Tổ 2, phường Q, Thành phố Sơn La, Sơn La.

- Nơi cư trú: Tổ 3, phường Q, Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị H; bị cáo có vợ và 02 con cùng sinh năm 2016.

- Tiền án: Có 01 tiền án; ngày 26/9/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng, về tội: Trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/11/2017 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ, ngày 23 tháng 11 năm 2017, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp phối hợp với Đồn biên phòng Nậm Lạnh và Ban Công an xã Nậm Lạnh làm nhiệm vụtại khu vực bản Mới, xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Anh Đ đang có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: Thu giữ trên tay trái của Nguyễn Anh Đ 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa 19 viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp), Đ khai nhận đó là ma túy tổng hợp, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu: YAMAHA, loại xe: SIRIUN, màu sơn trắng, số máy: 5C63269283, số khung: RLCS5C6309Y269226, biển kiểm soát: 29X1- 270.02. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng và dẫn giải Đ về Công an huyện Sốp Cộp để điều tra làm rõ hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật

Ngày 24/11/2017 tại Phòng PC54 - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ; Kết quả cân tịnh 19 (Mười chín) viên nén màu hồng có trọng lượng: 1,84 gam, lấy 0,48 gam làm mẫu giám định ký hiệu Đ. Số còn lại 1,36 gam, ký hiệu Đ1 vật chứng lưu kho vật chứng Công an huyện Sốp Cộp.

Kết luận giám định số: 24/KLMT ngày 29/11/2017 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu giám định ký hiệu Đ là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 1,84 gam, loại chất Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Anh Đ khai nhận: Do nghiên ma túy nên khoảng 12 giờ, ngày 23 tháng 11 năm 2017, Đ đến mượn chiếc xe máy của anh Lò Văn Kh đang làm việc tại nhà khách Ủy ban huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La rồi đi từ trung tâm huyện Sốp Cộp đến bản Mường Và, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp để tìm mua ma túy sử dụng. Khi Đ đi đến bản M, xã Mường Và thì gặp một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, tuổi, địa chỉ đang đi trên đường, Đ dừng xe máy làm quen và hỏi có ma túy tổng hợp bán không, bán cho Đ 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng), người đàn ông đó trả lời có bán giá: 26.000đ/viên (Hai mươi sáu ngàn đồng). Đ đồng ý mua, rồi đưa tiền cho người đàn ông dân tộc Thái: 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng), người đàn ông đó nhận tiền và đưa cho Đ 01 gói nilon màu trắng, Đ mở ra kiểm tra thấy bên trong có 19 viên ma túy tổng hợp màu hồng, sau đó gói lại cầm trên tay trái rồi tiếp tục điều khiển xe máy về trung tâm huyện Sốp Cộp theo hướng Mường Và - Nậm Lạnh - Sốp Cộp. Khi về đến khu vực bản Mới xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 17/CT – VKS, ngày 06 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Nguyễn Anh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Nguyễn Anh Đ từ 15 đến 18 tháng tù; Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Anh Đ nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Anh Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp mua và tàng trữ 1,84 gam loại chất Methamphetamine với mục đích để sử dụng, hành vi tàng trữ chất ma túy của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 có quy định tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Điều 249 đây là tội phạm được tách ra từ tội ghép theo Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm bảo quyền lợi của bị cáo và tính nhân đạo của pháp luật đối với người có hành vi phạm tội.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 là tái phạm. Tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo là người có công với cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng 3, và được UBND tỉnh Sơn La tặng nhiều bằng khen, kỷ niệm chương vì sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Sơn La do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu trước phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999; xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng theo bản án số 77/2014/HSPT ngày 26/9/2014. Tính đến ngày phạm tội bị cáo mới chấp hành được37 tháng 27 ngày. Bị cáo phạm tôi đang trong thời gian thử thách nên 24 tháng tù mà bị cáo được hưởng án treo theo bản án số 77/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La sẽ được chuyển thành án tù có thời hạn để tổng hợp với mức hình phạt của hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 BLHS năm 2015.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu: YAMAHA, loại xe: SIRIUN, màu sơn trắng, số máy: 5C63269283, số khung: RLCS5C6309Y269226, biển kiểm soát: 29X1- 270.02 Nguyễn Anh Đ dùng làm phương tiện đi mua ma túy. Quá trình điều tra, truy tố xét thấy chủ sở hữu là anh Lò Văn Kh, sinh năm 1992, trú tại bản Luốn I, xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La việc Nguyễn Anh Đ dùng chiếc xe máy trên làm phương tiện đi mua ma túy anh Kh hoàn toàn không biết. Ngày 31/01/2018 anh Kh đã có đơn xin lại tài sản, ngày 02/02/2018 VKSND huyện Sốp Cộp đã trả lại chiếc xe máy trên cho Lò Văn Kh là có căn cứ cần chấp nhận.

[8] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 1,36 gam Methamphetamine còn lại là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu huỷ

[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Anh Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s, x khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Nguyễn AnhĐ 15 (Mười năm) tháng tù.

Áp dụng khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 BLHS năm 2015 tổng hợp hình phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 77/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 23/11/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu huỷ 1,36 gam loại chất Methamphetamine ký hiệu Đ1. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 07/02/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Nguyễn Anh Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 06/3/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HS-ST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về