Bản án 21/2017/DS-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 21/2017/DS-ST NGÀY 31/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 31 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 204/2016/TLST- DS ngày 23 tháng 11 năm 2016 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2017/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2017/QĐST-DS ngày 14 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1959 và Bà Trương Thị Kim H, sinh năm 1972; Cùng ĐKTT: Ấp 1A, xã H, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

- Bị đơn: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1959; ĐKTT: Ấp 3, xã T, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Tấn T, sinh năm: 1959; ĐKTT: Ấp 3, xã T, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2016 và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H cùng trình bày: Vào ngày 08/8/2016, vợ chồng ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H chuyển nhượng cho bà Phạm Thị N diện tích đất 464,4 m2 thuộc thửa đất số 149, tờ bản đồ số 82 xã H, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Giá chuyển nhượng là 220.000.000 đồng, bà N thanh toán truớc số tiền 90.000.000 đồng, hai bên đã làm thủ tục chuyển nhượng tại cơ quan có thẩm quyền. Bà N hẹn thời hạn thanh toán số tiền còn lại 130.000.000 đồng là từ ngày 08/8/2016 đến ngày 20/8/2016. Tuy nhiên, bà N không thanh toán số tiền còn lại như đã thỏa thuận. Vì vậy, vợ chồng ông H và bà H khởi kiện yêu cầu bà N trả cho ông bà số tiền trên. Trong quá trình giải quyết vụ án, vào ngày 08/4/2017, bà N có trả thêm cho vợ chồng ông H, bà H số tiền 20.000.000 đồng, nên hiện nay số tiền bà N còn nợ ông H, bà H là 110.000.000 đồng. Ông H và bà H yêu cầu vợ chồng bà Phạm Thị N và chồng là ông Huỳnh Tấn T phải trả số tiền 110.000.000 đồng cho ông bà, không yêu cầu tính lãi chậm trả đối với số tiền trên cho đến khi kết thúc vụ án.

- Bị đơn bà Phạm Thị N trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của ông H và bà H về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên và số tiền đã thanh toán. Hiện nay việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn thành việc đăng ký sang tên tại quan có thẩm quyền, bà N đã đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông H, bà H. Do gặp khó khăn về kinh tế, nên bà N chưa thanh toán cho ông H, bà H số tiền còn lại theo cam kết. Hiện nay bà N còn nợ lại ông H và bà H số tiền 110.000.000 đồng. Bà N đồng ý cùng ông Huỳnh Tấn T là chồng bà thanh toán số tiền 110.000.000 đồng còn lại cho ông H và bà H.

Ông Huỳnh Tấn T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Huỳnh Tấn T nhiều lần đến Tòa án làm việc, nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: về cơ bản, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn là bà Phạm Thị N, người liên quan là ông Huỳnh Tấn T không chấp hành đầy đủ triệu tập của Tòa án là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử buộc ông Huỳnh Tấn T và bà Phạm Thị N phải trả cho ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H số tiền 110.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đối với bị đơn là bà Phạm Thị N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Huỳnh Tấn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa, nhưng đều vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà N và ông T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Vợ chồng ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H chuyển nhượng cho bà Phạm Thị N diện tích đất 464,4 m2 thuộc thửa số 149, tờ bản đồ số 82 xã H, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Các bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng vào ngày 08/8/2016 và đã hoàn thành thủ tục đăng ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền. Giá chuyển nhượng là 220.000.000 đồng, bà N thanh toán trước cho ông H, bà H số tiền 90.000.000 đồng, số tiền còn lại 130.000.000 đồng bà N hẹn sẽ thanh toán từ ngày 08/8/2016 đến ngày 20/8/2016. Tuy nhiên, bà N không thanh toán đủ số tiền còn lại theo như đã thỏa thuận. Ngày 08/4/2017, bà N thanh toán thêm cho ông H, bà H số tiền 20.000.000 đồng. Bà N và vợ chồng ông H, bà H có lời khai thống nhất hiện nay bà N còn nợ ông H, bà H số tiền chuyển nhượng đất là 110.000.000 đồng. Vì vậy, bà N phải có trách nhiệm thanh toán cho ông H, bà H số tiền này. Tuy chỉ một mình bà N trực tiếp giao dịch và đứng tên bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng ông Huỳnh Tấn T là chồng của bà N, nên đất nhận chuyển nhượng trên là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa bà N và ông Huỳnh Tấn T. Do đó, ông Huỳnh Tấn T phải có nghĩa vụ liên đới cùng với bà N thanh toán số tiền 110.000.000 đồng cho ông H và bà H.

[3] Về án phí: ông T và bà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với mức 5% của số tiền 110.000.000.000 đồng phải thanh toán cho ông H và bà H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357, khoản 2 Điều 468, Điều 500, Điều 501 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13; Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc ông Huỳnh Tấn T và bà Phạm Thị N phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H số tiền 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H, thì ông Huỳnh Tấn T và bà Phạm Thị N phải liên đới trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tại thời điểm thanh toán.

2. Về án phí: ông Huỳnh Tấn T và bà Phạm Thị N phải liên đới nộp 5.500.000 (năm triệu năm trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị Kim H số tiền tạm ứng án phí 3.250.000 (ba triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng đã nộp tại biên lai thu số 003177 ngày 23/11/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc.

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Điều 7a Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.Thời hiệuthi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2017/DS-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu:21/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về