TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 211/2021/DS-PT NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 14/9/2020 và 24/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 249/2020/TLPT-DS ngày 17/4/2020 về Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 05 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 320/2020/QĐ-PT ngày 13 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị L, sinh năm 1952;
Địa chỉ: Khóm Thượng 2, thị trấn Thường Thới Tiền, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
- Bị đơn: Đồng Văn S, sinh năm 1952;
Địa chỉ: Tổ 1, Khóm Thượng 2, thị trấn Thường Thới Tiền, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. D Văn H, sinh năm 1952;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông H là: Ông Lý Ngọc Bình – Trợ giúp viên pháp lý của Chi nhánh số 2, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đồng Tháp.
2. D Văn T, sinh năm 1976;
3. D Thị L, sinh năm 1982;
Người đại diện theo ủy quyền của chị L là: Anh D Văn T, sinh năm 1976 (Theo văn bản ủy quyền ngày 17/8/2020);
4. D Minh K, sinh năm 2005;
Người đại diện theo pháp luật của cháu D Minh K là: Anh D Văn T, sinh năm 1976 (Là cha của K);
Cùng địa chỉ: Khóm Thượng 2, thị trấn Thường Thới Tiền, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
5. Trịnh Thị T, sinh năm 1952;
Người đại diện theo ủy quyền của bà T là: Ông Đồng Văn S, sinh năm 1952 (Theo văn bản ủy quyền ngày 17/8/2020).
6. Nguyễn Thị H, sinh năm 1982;
Người đại diện theo ủy quyền của chị H là: Anh Đỗ Trịnh Q, sinh năm 1952 (Theo văn bản ủy quyền ngày 17/8/2020).
7. Đỗ Trịnh Q, sinh năm 1977;
8. Đỗ Thị Tú T, sinh năm 2006;
9. Đỗ Thị Ánh D, sinh năm 2011;
Người đại diện theo pháp luật của cháu Đỗ Thị Tú T và Đỗ Thị Ánh D là: Anh Đỗ Trịnh Q, sinh năm 1977 (Là cha của T và D).
Cùng địa chỉ: Khóm Thượng 2, thị trấn Thường Thới Tiền, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L là nguyên đơn và ông D Văn H là người có quền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông ngoại bà tên La Văn Bản quản lý sử dụng từ trước năm 1975. Đất có chiều ngang 11m, chiều dài 72,6m, diện tích 810m2, thuộc thửa 607 và thửa 608, tờ bản đồ số 13 hiện nay do bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất này cụ Bản sử dụng đến năm 1965 thì giao lại cho bà La Thị Lương quản lý sử dụng. Đến năm 1975 bà Lương giao lại cho con tên Nguyễn Thị Nghê quản lý sử dụng. Đến năm 2008 bà Nghê giao lại cho bà sử dụng (Bà là con của bà Nghê). Ngày 24/9/2014 bà được cấp quyền sử dụng đất. Trong quá trình ông Đồng Văn S bơm cát lên trên phần đất của ông S thì bị sạt lở, tường rào nghiêng qua phần đất của bà. Tháng 8/2017 ông S sửa chữa lại tường rào lấn qua đất của bà. Đoạn thứ nhất từ mí đường đal ra sau hậu nhà có chiều ngang 0,5m, chiều dài 25m. Đoạn thứ hai chiều ngang 01m, chiều dài 27m. Đoạn thứ ba chiều ngang 0,6m, chiều dài 18m, tổng diện tích lấn chiếm là 40,5m2. Sau khi sự việc xảy ra bà có làm đơn gửi đến chính quyền địa phương giải quyết thì ông S có hứa là sẽ khắc phục nhưng không thấy ông S sửa chữa khắc phục phần tường rào lấn qua phần đất của bà. Do đó, bà yêu cầu ông S di dời tường rào, bụi tre, 02 cây điệp tây, 01 cây bạch đàn và các tài sản khác để trả lại cho bà 40,5m2 thuộc thửa 607 và thửa 608 tờ bản đồ số 13, cấp ngày 24/9/2014, tại ấp Thượng 2, xã Thường Thới Tiền, huyện H.
- Bị đơn ông Đồng Văn S đồng thời đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trịnh Thị T và chị Nguyễn Thị H trình bày:
Vào năm 1992, cha của ông xây hàng rào tường kiên cố. Đến năm 1997 thì cha ông chết. Năm 2001 ông đi đăng ký quyền sử dụng đất, đến năm 2003 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.248m2, thuộc thửa số 527, tờ bản đồ số 13. Đến ngày 03/7/2017 tường rào của ông bị hỏng nên ông sửa chữa lại. Bà Nguyễn Thị L ngăn cản không cho ông sửa tường rào. Bà L cho rằng tường này nằm bên đất của bà là không đúng. Vì phần đất này là của ông, tường hàng rào này do cha ông xây từ năm 1992 và sử dụng cho đến nay. Do đó, ông không đồng ý di dời tường rào, bụi tre, 02 cây điệp tây, 01 cây bạch đàn và các tài sản khác để trả lại 40,5m2 đất theo yêu cầu của bà L. Ngoài ra, năm 2014 khi tiến hành đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L, hai bên có ký biên bản thống nhất ranh là theo tường rào cũ và không có tranh chấp đối với tường rào.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông D Văn H trình bày: Ông thống nhất theo trình bày của vợ ông là bà Nguyễn Thị L trình bày không có ý kiến khác.
+ Anh D Văn T đồng thời đại diện theo ủy quyền của chị D Thị L và người đại diện theo pháp luật của cháu D Minh K trình bày: Anh thống nhất theo trình bày của mẹ anh là bà Nguyễn Thị L, không có ý kiến khác.
+ Anh Đỗ Trịnh Q đồng thời là người đại diện theo pháp luật của cháu Đỗ Thị Tú T và Đỗ Thị Ánh D trình bày: Anh thống nhất theo trình bày của cha anh là ông Đồng Văn S, không có ý kiến khác.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện H đã xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L yêu cầu ông Đồng Văn S trả lại diện tích đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm đo đạc thực tế 40,5m2 thuộc một phần các thửa đất số 527, 607, 608, tờ bản đồ số 13.
2. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất 607, 608 của hộ bà Nguyễn Thị L và thửa 527 của hộ ông Đồng Văn S là các đoạn thẳng, được xác định T từ đường dal (mốc M12) đến giáp đất hộ bà Nguyễn Thị L đang quản lý (M2), có các điểm mốc như sau:
Từ mốc M12 đến mốc M11: 10,1m; Từ mốc M11 đến mốc M27: 19,8m; Từ mốc M27 đến mốc M10: 6,9m; Từ mốc M10 đến mốc M20: 2,4m; Từ mốc M20 đến mốc M19: 3,45m; Từ mốc M19 đến mốc M18: 6,8m; Từ mốc M18 đến mốc M17: 1,35m; Từ mốc M17 đến mốc M16: 4,3m; Từ mốc M16 đến mốc M6: 2,4m;
Từ mốc M6 đến mốc M5: 12m; Từ mốc M5 đến mốc M4: 3,4m;
Từ mốc M4 đến mốc M2: 3,4m.
Ranh giới quyền sử dụng đất giữa các bên được xác định theo chiều thẳng đứng từ không gian đến lòng đất. Cây cối, tài sản, vật kiến trúc của bên nào lấn chiếm ranh đất thì phải di dời theo quy định của pháp luật. Kèm theo sơ đồ trích đo số 07-2019 ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
Các đương sự được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh diện tích đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/02/2020 bà Nguyễn Thị L và ông D Văn H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện H. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa bản án sơ thẩm. Buộc ông Đồng Văn S di dời toàn bộ tường rào và cây trồng của ông S đã lấn qua phần đất của hộ bà Nguyễn Thị L diện tích 40,5m2. Xác định ranh đất là đường thẳng nối từ mốc M2 đến M12 theo sơ đồ hiện trạng đất tranh chấp ngày 19/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L và ông H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi kiện. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về nội dung giải quyết của vụ án.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự có mặt tại phiên tòa đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà L và ông H, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Phần diện tích đất tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị L và ông Đồng Văn S thuộc một phần các thửa số 527, 607, 608, tờ bản đồ số 13, có diện tích 40,1m2 trong phạm vi các mốc M2, M4, M5, M6, M16, M17, M18, M19, M20, M10, M27, M11, M12, M2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Đồng Văn S và hộ bà Nguyễn Thị L tại khóm Thượng 2, thị trấn Thường Thới Tiền, huyện H.
[2] Bà L xác định ranh giới quyền sử dụng đất của hai bên là đoạn thẳng từ mốc M2 mốc M12 nên yêu cầu ông S di dời các tài sản của ông S để trả lại cho bà diện tích 40,1m2, thuộc một phần các thửa số 527, 607, 608, tờ bản đồ số 13 vì gia đình ông S đã xây dựng tường rào lấn chiếm qua đất của gia đình bà.
[3] Xét thấy, đất của bà L có nguồn gốc của ông bà để lại từ trước năm 1975, thuộc các thửa 527, 607, 608, tờ bản đồ số 13 cho mẹ bà là cụ Nguyễn Thị Nghê. Đến năm 2008 cụ Nghê giao lại toàn bộ diện tích này cho bà sử dụng. Ngày 24/9/2014 bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong quá trình sử dụng đất giữa bên bà và bên ông S có tường rào của ông S làm ranh. Khi bên ông S làm tường rào bên bà L không tranh chấp. Cho thấy, ranh đất của hai bên đã được xác định là theo tường rào của bên ông S. Sau này khi ông S bơm cát lên cao trên phần đất của mình thì tường rào bị nghiêng qua phần đất của bà. Đến tháng 8/2017 ông S sửa chữa lại tường rào thì xảy ra tranh chấp.
[4] Căn cứ vào Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án và sơ đồ đo đạc ngày 23/10/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H cho thấy vị trí tường rào của ông S bị nghiêng qua đất của bà L là từ mốc M10, M20, M19, M18, M17, M16 đến M6 và ông S đã xây lại bằng gạch và lưới B40 đối với phần tường rào bị nghiêng vị trí ở phía trong tường rào bị nghiêng được thể hiện từ mốc M10, M8 đến M6 phần còn lại vẫn giữ nguyên. Do đó, không có căn cứ để xác định bên ông S đã xây tường lấn qua đất của bên bà L. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu của bà L nhưng xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa bên bà L với ông S là từ mốc M12, M11, M27, M10, M20, M19, M18, M17, M16, M6, M5, M4 đến M2 trong đó có phần tường rào nghiêng qua đất của bên bà L là không phù hợp. Vì vậy, cần phải xác định lại ranh đất của hai bên là các đoạn thẳng nối liền từ mốc M12, M11, M27, M10, M8, M6, M5, M4 đến M2. Do đó, bà L và ông H kháng cáo là có một phần căn cứ.
Xét ý kiến của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà L và ông H, sửa bản án sơ thẩm là chỉ phù hợp một phần như đã nhận định ở trên.
Xét ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà L và ông H, sửa một phần bản án sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà L và ông H, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 91, Điều 147, Điều 148, Điều 157, Điều 165, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 100, Điều 166, Điều 203 Luật đất đai; Điều 175 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, L phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị L và ông D Văn H.
2. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện H.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị L.
4. Ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa 607, thửa 608 của hộ bà Nguyễn Thị L với thửa 527 của hộ ông Đồng Văn S là các đoạn thẳng nối liền các mốc M12, M11, M27, M10, M8, M6, M5, M4, M2.
Ranh giới quyền sử dụng đất giữa các bên được xác định theo chiều thẳng đứng từ không gian đến lòng đất. Tài sản của bên nào lấn chiếm ranh đất thì phải di dời theo quy định của pháp luật.
(Kèm theo Sơ đồ trích đo số 07-2019 ngày 23/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H, tỉnh Đồng Tháp).
Các đương sự được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai đăng ký, điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí:
Miễn tiền án phí dân sự cho bà Nguyễn Thị L và ông Đồng Văn S, do là người cao tuổi.
3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Bà Nguyễn Thị L phải chịu 5.949.000 đồng (Đã nộp xong).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 211/2021/DS-PT ngày 24/06/2021 về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 211/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về