Bản án 210/2019/HNGĐ-ST ngày 28/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 210/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 675/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 186/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn X, xã T1, huyện A, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến V sinh năm 1985; Địa chỉ: Thôn X1, xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14 tháng 8 năm 2019 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Phạm Thị T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T2, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 111 ngày 22 tháng 11 năm 2013. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại thôn X, xã T2, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Tiến V.

Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V có hai con chung tên là Nguyễn Phạm Ánh N1 sinh ngày 10/10/2012 và Nguyễn Phạm Tiến Đ1 sinh ngày 28/12/2015. Hiện hai con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị xin nuôi hai con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Nguyễn Tiến V tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V có tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Trong bản tự khai đề ngày 16 tháng 9 năm 2019 cùng các lời khai với Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, anh Nguyễn Tiến V (bị đơn) trình bày:

Anh Nguyễn Tiến V thừa nhận toàn bộ lời trình bày của chị Phạm Thị T là đúng. Nay chị Phạm Thị T đề nghị ly hôn, anh xác định vẫn còn tình cảm vợ chồng nên không đồng ý ly hôn. Nếu phải ly hôn anh xin nuôi dưỡng cả hai con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh có quan điểm như chị Phạm Thị T đã trình bày. Về tài sản chung anh có đề nghị Tòa án giải quyết cho anh.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V. Giao hai con chung tên là Nguyễn Phạm Ánh N1 sinh ngày 10/10/2012 và Nguyễn Phạm Tiến Đ1 sinh ngày 28/12/2015 cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng không giải quyết trong vụ án này nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Phạm Thị T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Nguyễn Tiến V đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 111 ngày 22 tháng 11 năm 2013 của Ủy ban nhân dân xã T2, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra va chạm, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Phạm Thị T xin ly hôn với anh Nguyễn Tiến V. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị T với anh Nguyễn Tiến V.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V có hai con chung tên là Nguyễn Phạm Ánh N1 sinh ngày 10/10/2012 và Nguyễn Phạm Tiến Đ1 sinh ngày 28/12/2015. Khi ly hôn chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V đều xin được nuôi hai con. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Phạm Thị T có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt, chị Phạm Thị T đang nuôi dưỡng hai con và hai con chung đang khỏe mạnh và phát triển bình thường, cháu Nguyễn Phạm Ánh N1 có nguyện vọng ở với mẹ, anh Nguyễn Tiến V hiện không có đủ điều kiện nuôi con. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao hai con chung cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V trình bày để tự thỏa thuận, không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T không có yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn. Anh Nguyễn Tiến V có đề nghị Tòa án giải quyết nhưng do yêu cầu này không liên quan đến vụ án đang giải quyết nên anh Nguyễn Tiến V có quyền khởi kiện chia tài sản chung vợ chồng thành một vụ án khác nếu có yêu cầu. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết chia tài sản chung vợ chồng trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Phạm Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Nguyễn Phạm Ánh N1 sinh ngày 10/10/2012 và Nguyễn Phạm Tiến Đ1 sinh ngày 28/12/2015 cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Tiến V tự thỏa thuận giao nhận cho nhau.

3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Phạm Thị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0002932 ngày 22 tháng 8 năm 2019; Chị Phạm Thị T đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị T, anh Nguyễn Tiến V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 210/2019/HNGĐ-ST ngày 28/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:210/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về