Bản án 209/2020/HS-ST ngày 19/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 209/2020/HS-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 205/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan Văn T (tên gọi khác: Bờm), sinh năm 1997; nơi sinh: Thừa Thiên Huế; hộ khẩu thường trú: Tổ 13, phường H, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn N và bà Mai Thị B; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 27/6/2020, sau đó tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Ông Cao Ngọc Lộc, ông Huỳnh Hữu Hiếu; vắng mặt

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 26/6/2020, tại đoạn đường ĐT746 thuộc khu phố Bình Hòa 1, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Công an phường Tân Phước Khánh tiến hành kiểm tra hành chính đối với Phan Văn T thì Phan Văn T lấy trong người 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng giao nộp cho Công an phường Tân Phước Khánh. Phan Văn T khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy của bị cáo, bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng, Công an phường Tân Phước Khánh đã đưa Phan Văn T về trụ sở và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ vật chứng, đồ vật, tài liệu gồm:

- 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Phan Văn T;

- 01 bóp da màu đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng.

Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Công an phường Tân Phước Khánh bàn giao Phan Văn T cùng hồ sơ, vật chứng, đồ vật, tài liệu liên quan cho Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra bị cáo Phan Văn T thống nhất lời khai ban đầu.

Tại Kết luận giám định số 401/MT-PC09 ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,1802g, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 209/CT-VKSTU ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy đối với lượng ma túy còn lại sau giám định; 01 bóp da màu đen không còn giá trị sử dụng; trả lại cho bị cáo tài sản không liên quan hành vi phạm tội gồm: Giấy phép lái xe mang tên bị cáo và điện thoại di động Iphone 6.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Tại phần tranh luận bị cáo không trình bày lời bào chữa cho mình; lời nói sau cùng, bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt tuy nhiên quá trình điều tra đã có lời khai đầy đủ, việc vắng mặt của những người làm chứng không trở ngại cho việc xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người làm chứng.

[3] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng đồng thời phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, đủ cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 26/6/2020, tại đoạn đường ĐT746 thuộc khu phố Bình Hòa 1, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị cáo Phan Văn T có hành vi cất giữ trong người 0,1802g ma túy loại Methamphetamine. Thời điểm thực hiện hành vi, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tự ý cất giữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực chất gây nghiện. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng nhưng luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công việc ổn định.

[6] Về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đã cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 0,1307g ma túy còn lại sau giám định, bóp da màu đen không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; đối với giấy phép lái xe hạng A1 mang tên bị cáo và điện thoại di động Iphone 6 không liên quan hành vi phạm tội do đó trả lại cho bị cáo tiếp tục sử dụng.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phan Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1307g ma túy trong bì thư niêm phong ký hiệu 401/P09; 01 Bóp da màu đen.

- Trả lại cho bị cáo: Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Phan Văn T và điện thoại di động Iphone 6 màu vàng số Imei 354434063895000 bị nứt góc trên màn hình.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên) 3. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án :

Buộc bị cáo Phan Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 209/2020/HS-ST ngày 19/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:209/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về