Bản án 209/2018/HNGĐ-ST ngày 26/02/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 209/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2018/TLST-HNGĐ ngày 05/01/2018 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 602/2018/QĐXX-ST ngày 07/02/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Minh T, sinh năm 1982

Thường trú: xã Bình T, huyện Tây S, tỉnh Bình Đ;

Tm trú: Số 40/7 Lê Thị H, Phường A, quận Gò, Tp. Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm 1976

Quốc tịch: Việt Nam Cư trú: Lào (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 28/10/2017 và quá trình giải quyết vụ án, bà Phạm Thị Minh Trang trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Lê Văn L kết hôn vào năm 2003 theo giấy chứng nhận kết hôn số 01/2003, quyển số I do Ủy ban nhân dân xã Hoằng Tr, huyện Hoằng H1, tỉnh Thanh H2 cấp ngày 18/01/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nên đã ly thân từ năm 2012 cho đến nay và hiện tại ông L chủ yếu sống tại Lào dẫn đến mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn được. Nay tình cảm không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L.

Về việc nuôi con: Bà và ông L có hai người con là trẻ Lê Phạm Minh Đ, sinh ngày 21/8/2004 và trẻ Lê Văn Th, sinh ngày 20/9/2009. Hiện nay bà đang nuôi dưỡng nên bà yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi hai con. Bà T tự nguyện không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 13/12/2017 ông Lê Văn L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông thống nhất với nội dung bà T đã trình bày. Do có mâu thuẫn trong quá trình chung sống nên ông và bà T đã ly thân từ năm 2012 cho đến nay, hiện nay ông đang làm việc và sinh sống tại Lào không có ý định quay lại Việt Nam. Nên ông đồng ý ly hôn với bà T.

Về việc nuôi con: Ông và bà T có hai con là trẻ Lê Phạm Minh Đ, sinh ngày 21/8/2004 và trẻ Lê Văn Th, sinh ngày 20/9/2009. Ông đồng ý để bà T tiếp tục trực tiếp nuôi hai con sau khi ly hôn.

Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 31/01/2018, trẻ Lê Phạm Minh Đ và trẻ Lê Văn Th trình bày:

Hin các cháu đang ở với mẹ là bà T và đề nghị được tiếp tục ở với bà T. Tại phiên tòa sơ thẩm, Bà Phạm Thị Minh T và ông Lê Văn L có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. kiến:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Các đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của bà T:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà T được ly hôn với ông L.

- Về việc nuôi con: Giao trẻ Lê Phạm Minh Đ, sinh ngày 21/8/2004 và trẻ Lê Văn Th, sinh ngày 20/9/2009 cho bà T trực tiếp nuôi. Ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

- Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Ngày 28/10/2017, bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông L. Ông L hiện đang cư trú tại Lào, nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Khoản 3 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà T và ông L có đơn xin xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông L tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01/2003 ngày 18/01/2003, nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà T và ông L đều thừa nhận thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng đã ly thân từ năm 2012 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, lo lắng cho nhau, cả hai đã cố gắng hòa giải đoàn tụ nhưng không được. Do đó, có đủ cơ sở xác định bà T và ông L đã không còn tình cảm với nhau, không quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 19, Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà T về việc ly hôn với ông L.

- Về việc nuôi con: Căn cứ vào giấy khai sinh số 290 ngày 03/11/2004 và Giấy khai sinh số 131 ngày 16/10/2009 thì bà Trang và ông L có 02 người con là trẻ Lê Phạm Minh Đ, sinh ngày 21/8/2004 và trẻ Lê Văn Th, sinh ngày 20/9/2009. Hiện nay hai trẻ đang chung sống ổn định cùng bà T. Nay bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con, ông L cũng đồng ý để bà T tiếp tục nuôi hai con. Hai trẻ đều có yêu cầu được tiếp tục ở với bà T nên căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, giao hai trẻ cho bà T tiếp tục trực tiếp nuôi. Ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

- Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T là nguyên đơn yêu cầu ly hôn, nên căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 3 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 37, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 ; Khoản 1 Điều 273 và Khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa Án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Minh T:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Minh T được ly hôn ông Lê Văn L.

- Về việc nuôi con: Giao trẻ Lê Phạm Minh Đ, sinh ngày 21/8/2004 và trẻ Lê Văn Th, sinh ngày 20/9/2009 cho bà Phạm Thị Minh T trực tiếp nuôi. Ghi nhận việc bà Phạm Thị Minh T không yêu cầu ông Lê Văn L cấp dưỡng nuôi con.

Ông Lê Văn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại Điều 82, Điều 83, Điều 84; Điều 116 và Điều 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Bà Phạm Thị Minh T phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí bà Phạm Thị Minh T đã nộp theo biên lai số AA/2017/0048508, ngày 29/12/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Phạm Thị Minh T đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Phạm Thị Minh T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 (mười lăm) ngày; ông Lê Văn L có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 01 (một) tháng kể từ ngày ngày kháng bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 209/2018/HNGĐ-ST ngày 26/02/2018 về ly hôn

Số hiệu:209/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về