Bản án 208/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 208/2017/HSST NGÀY 08/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau, Tòa án NDTP Cà Mau tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 230/2017/HSST ngày 19 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

H và tên: Lê Quốc C (Đầu bể) Sinh năm : 1996

ĐKNKTT: Ấp N, xã H, huyện D, tỉnh Cà Mau.

Chỗ ở: Ấp Đ, xã Lý Văn L, Tp. M, tỉnh Cà Mau.

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 3/12

Con ông : Võ Hoàng S; Con bà: Lê Ngọc H

Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị bắt ngày: 14/6/2017 đến nay.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Quốc C bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố M truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 17 giờ ngày 14/6/2017, Cụm đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển phối hợp với Công an phường 9 và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố M bắt quả tang Lê Quốc C có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Võ Tuấn H thu tang vật gồm:

+ Thu giữ trong người Võ Tuấn H được 02 bịch ma túy, niêm phong kín có chữ ký của Lê Quốc C và Võ Tuấn H.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đỏ đen có sim số 0941176214 của Lê Quốc C.

+ 01 điện thoại di động hiệu Hphone màu đen sim số 0941595547 của Võ Tuấn H.

+ 01 xe mô tô Yamaha hiệu Sirius biển số 69F1-316.92.

+ Tiền Việt Nam là 300.000 đồng thu trong người Lê Quốc C.

Tại bản kết luận giám định số 31/GĐMT-PC54 ngày 15/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận như sau: Mẫu tinh thể trong suốt được niêm phong trong một phong bì hình chữ nhật, có chữ ký và họ tên Lê Quốc C và Võ Tuấn H gửi giám định có tổng trọng lượng 0,208 gam, có Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 67, Nghị định số 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Quá trình điều tra C khai: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 14/6/2017 H dùng điện thoại di động có số thuê bao là 0941595547 gọi và nhắn tin vào điện thoại của C số thuê bao 0941176214 hỏi mua hai bịch ma túy đá trị giá 300.000đ, hẹn giao tại quán cà phê số 16 đường Trần Quang Diệu, khóm 4, phường 9, thành phố M, khoảng 17 giờ cùng ngày C điều khiển xe mô tô biển số 69F1-316.92 đến điểm hẹn giao hai bịch ma túy đá cho H và nhận số tiền 300.000 đồng thì bị bắt quả tang. Ngoài ra vào ngày 13/6/2017 C còn bán cho H 01 bịch ma túy đá với giá 200.000đ, giao ma túy cho H tại hẻm đối diện chùa Từ Quang thuộc phường 9, thành phố M. Ma tuý C bán cho H là do C mua của một người thanh niên ở phường 1, thành phố M (không biết họ tên địa chỉ cụ thể).

Tại biên bản kiểm tra điện thoại vào lúc 19 giờ ngày 14/6/2017, thì sim số 0941176214 của Lê Quốc C có liên lạc cuộc gọi đến, đi và tin nhắn với sim số 0941595547 của Võ Tuấn H về việc trao đổi mua bán ma túy lúc khoảng 16 giờ ngày 14/6/2017.

Đối với điện thoại di động hiệu Hphone màu đen của Võ Tuấn H. Ngày 14/6/2017, Cụm đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tiến hành trao trả lại cho H.

Đối với xe mô tô 69F1-316.92 mà Lê Quốc C dùng làm phương tiện đi giao ma túy là của bà Lê Ngọc H (mẹ ruột C) mua và nhờ C đứng tên. Việc C dùng làm phương tiện đi giao ma túy bà H hoàn toàn không hay biết. Nên ngày 16/6/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố M đã tiến hành trao trả xe trên cho bà Lê Ngọc H.

Tại cáo trạng số 206/KSĐT-KT ngày 17/10/2017 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố M truy tố bị cáo về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điều 194 khoản 2, điểm b Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận ngày 13/6/2017 có bán ma tuý cho H một lần số tiền 200.000đ giao tại hẻm chùa Từ Quang phường 9. Khoảng 17 giờ ngày 14/6/2017 bán ma tuý cho H lần thứ hai với số tiền 300.000đ giao tại quán cà phê số 16 đường Trần Quang Diệu, khóm 4, phường 9, thành phố M, vừa giao xong thì bị bắt, Công an có lập biên bản và thu giữ các tang vật như Cáo trạng của VKS nêu là đúng.

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra bút lục số 67 đến 70, 90, 91 hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa; Lời khai của bị cáo tại biên bản phạm tội quả tang bút lục số 31, 32 thừa nhận bán ma tuý cho H vào ngày 14/6/2017 tại quán cà phê số 16 đường Trần Quang Diệu, khóm 4, phường 9, thành phố M, thì bị bắt thu giữ 02 bịch ma tuý bị cáo bán cho H; Lời khai của con nghiện H tại biên bản ghi lời khai thể hiện tại các bút lục số 46, 47 và tại biên bản phạm tội quả tang bút lục 31, 32 hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo; Chất tinh thể màu trắng dạng rắn bị cáo bán cho H được cơ quan giám định kết luận trọng lượng 0,208g có chất Methamphetamine là chất ma tuý nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ bút lục số 13; Tại biên bản kiểm tra điện thoại của bị cáo bút lục số 34 thể hiện số điện thoại của bị cáo và của H có gọi qua lại và nhắn tin với nhau đúng như lời khai của bị cáo và H. Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên toà, với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai của con nghiện H, với kết quả giám định và với biên bản kiểm tra điện thoại của bị cáo, nhận thấy bị cáo C đã có hành vi mua bán ma tuý cho con nghiện là H nhiều lần, bị cáo biết được tác hại của ma tuý, nhà nước nghiêm cấm mọi cá nhân tổ chức mua bán nhưng bị cáo vẫn cố tình mua bán nhiều lần để hưởng lợi, hành vi đó của bị cáo cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, khoản 2, điều 194 BLHS đúng như VKS truy tố.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù. Từ điều luật viện dẫn và đề nghị của VKS xét thấy hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội đã xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất tân dược gây nghiện, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn TP M nói chung, gián tiếp tạo ra các tệ nạn khác trong xã hội, nên cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên HĐXX có xem xét đến tình tiết quá trình điều tra và tại tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải thừa nhận những hành vi vi phạm trước đó, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo trong lúc lượng hình.

Đối với số ma tuý thu khi bắt bị cáo, cơ quan giám định đã trích mẫu giám định và lưu mẫu sau khi giám định không còn.

Các tang vật của vụ án quá trình điều tra cơ quan Công an đã hoàn trả một phần cho chủ sở hữu và con nghiện, hiện còn một điện thoại hiệu Nokia 1280 màu đỏ đen đã qua sử dụng cùng sim số 094176214 và 300.000đ đây là tài sản liên quan đến việc bị cáo phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước .

Đối với đối tượng bán ma tuý cho bị cáo, cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân nên đã tách ra xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với số tiền bị cáo bán ma tuý cho con nghiện H vào ngày 13/6/2017 là tiền giao dịch bất hợp pháp cần buộc bị cáo nộp lại sung quỹ nhà nước .

Hành vi mua ma tuý của H cơ quan điều tra giao Công an phường 9 xử lý hành chính không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Quốc C (Đầu bể) phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", về hình phạt: Áp dụng điểm b, khoản 2, điều 194; Điểm p khoản 1, điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 07 (Bảy) năm tù, thời hạn được tính kể từ ngày 14/6/2017.

2/ Căn cứ 76 Bộ luật tố tụng hình sự, áp dụng điều 41 BLHS:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước một điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đỏ đen đã qua sử dụng cùng sim số 094176214 và 300.000đ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2017.

- Buộc bị cáo nộp lại số tiền 200.000đ sung quỹ nhà nước .

Khi án có hiệu lực.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp 200.000 đồng khi án có hiệu lực

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luận thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:208/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về