Bản án 206/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về việc ly hôn và con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 206/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ VIỆC LY HÔN VÀ CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 574/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn và con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 245/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 11 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị N; địa chỉ: Thôn 03, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Phạm Khoa Đ; địa chỉ Đ ký thường trú: Thôn 03, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trương Thị N trình bày: Chị và anh Phạm Khoa Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện vào năm 2010 và có Đ ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 27 tháng 8 năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại thôn 03, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Đ đã vi phạm pháp luật và đang phải chấp hành án trong trại giam. Do mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân nhau. Nay chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Khoa Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 01 con chung tên Phạm Hoàng Hải, sinh ngày 14/10/2010, từ khi vợ chồng ly thân và anh Đ đi chấp hành án đến nay con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc nên khi ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con để chị và anh Đ tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Trương Thị N trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến và đề nghị của bị đơn là anh Phạm Khoa Đ: Anh Đ thống nhất với trình bày của chị Trương Thị N về thời gian, điều kiện kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng hòa thuận đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do anh phải đi chấp hành án phạt tù trong trại giam, từ đó chị N cũng không quan tâm đến anh. Nay, chị N xin ly hôn, anh cũng đồng ý. Về con chung: Thống nhất với trình bày của chị N vợ chồng có 01 con chung. Trường hợp ly hôn, do anh đang phải chấp hành án nên con chung để chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, để anh và chị N tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đều đã chấp hành đúng quy định của pháp luật và có đơn xin xét xử vắng mặt. Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Trương Thị N được ly hôn anh Phạm Khoa Đ. Về con chung: Giao con chung tên: Phạm Hoàng Hải, sinh ngày 14/10/2010 cho chị Trương Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trương Thị N và anh Phạm Khoa Đ không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết; Về tài sản chung: Chị Trương Thị N và anh Phạm Khoa Đ không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Trương Thị N và Phạm Khoa Đ; Bản sao giấy khai sinh mang tên Phạm Hoàng Hải; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt và đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Trương Thị N và anh Phạm Khoa Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có Đ ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H theo Giấy chứng nhận kết hôn số 54, ngày 27 tháng 8 năm 2010 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Do mâu thuẫn và anh Đ đang phải chấp hành án trong trại giam nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay không còn quan tâm nhau. Nay để ổn định cuộc sống chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh Đ đã kéo dài và không còn khả năng đoàn tụ được nữa, chị N xin ly hôn anh Đ cũng đồng ý ly hôn. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị N, cho chị Trương Thị N được ly hôn anh Phạm Khoa Đ.

[3]. Về con chung: Chị Trương Thị N và anh Phạm Khoa Đ có 01 con chung tên: Phạm Hoàng Hải, sinh ngày 14/10/2020, kể từ khi vợ chồng sống ly thân và anh Đ đi chấp hành án đến nay con chung do chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, khi ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi con chung, con chung có nguyện muốn ở với chị N và anh Đ cũng đồng ý để chị N trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh tại địa phương con chung hiện nay đang do chị N trực tiếp nuôi con chung vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, còn anh Đ đang chấp hành án trong trại giam nên không có đủ điện kiện nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao các con chung tên: Phạm Hoàng Hải, sinh ngày 14/10/2020 cho chị Trương Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trương Thị N và anh Phạm Khoa Đ đều trình bày để chị N và anh Đ tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung:

Chị Trương Thị N và anh Phạm Khoa Đ đều trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Trương Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trương Thị N được ly hôn anh Phạm Khoa Đ.

2. Về con chung: Giao 01 con chung tên Phạm Hoàng Hải, sinh ngày 14/10/2010 cho chị Trương Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trương Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002201, ngày 05 tháng 8 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố Hải Phòng. Chị Trương Thị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 206/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về việc ly hôn và con chung khi ly hôn

Số hiệu:206/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về