TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 206/2017/HSST NGÀY 22/06/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22/6/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 209/2017/HSST ngày 18/5/2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2017/QĐXX – HSST ngày 07/6/2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh năm 1990.
HKTT: Thôn NM , xã LH, huyện VL, tỉnh HY.
Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh.
Con ông: Nguyễn Đức T, sinh năm 1958 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1959; Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là thứ 04; Vợ, con: chưa có. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/02/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên toà.
Tiền sự: Không. Tiền án: 02.
Tại bản án số 35/HSST ngày 11/6/2014, Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, xử phạt bị cáo Thành 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Tại bản án số 75/HSST ngày 27/11/2015, Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên xử phạt bị cáo Thành 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. ra trại ngày 30/11/2016.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bản cáo trạng số 108/2017/BCT ngày 18/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm p, khoản 2, Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Khoảng 10h45’ ngày 22/02/2017, tại thôn Đa Cấu, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Bắc Ninh phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã bắt giữ Thành cùng toàn bộ tang vật đưa về trụ sở công an phường lập biên bản phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ: Thu tại dưới đất cách vị trí T đang đứng khoảng 01m 01 gói nhỏ màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong phòng bì thư có chữ ký T và người làm chứng gửi đi giám định.
Ngoài ra còn thu của Thành 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng và số tiền 1.200.000 đồng.
Tại bản Kết luận giám định số 309/KLGĐ- PC54 ngày 22/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng có trọng lượng 0,2291gam. Loại ma túy là chất Heroine”.
Quá trình xét hỏi tại cơ quan điều tra bị cáo T đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 10h ngày 22/02/2017, T bắt xe ôm cuả 01 người đàn ông không quen biết đi từ đoạn cầu vượt đường quốc lộ 18 thành phố Bắc Ninh đến khu Công nghiệp Quế Võ, Bắc Ninh mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi Thành đi đến khu công nghiệp Quế Võ, T xuống xe còn người lái xe ôm đi đâu không rõ. Thành đi vào 01 ngôi nhà ngay ngã tư ven đường thuộc thôn Đa Cấu, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh (T không nhớ rõ địa chỉ ngôi nhà), gặp người thanh niên không quen biết, T hỏi người thanh niên này có ma túy không bán cho em một cái ( Ý hỏi bán cho T ma túy). Người thanh niên này đồng ý, T đưa cho người thanh niên 100.000 đồng, người thanh niên nhận tiền và đưa lại cho T 01 gói nhỏ màu trắng, T biết trong đó có ma túy nên nhận và cầm trên tay trái đi về. Đi được khoảng 50m thì gặp tổ công tác của Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố Bắc đang đi tuần tra phát hiện thấy T có biểu hiện nghi vẫn đã kiểm tra hành chính đối với T, do lo sợ nên T đã ném gói ma túy vừa mua được xuống đất cách chỗ T đứng khoảng 01 m. Tổ công tác đã thu giữ vật chứng và đưa T về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang.
Tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận tội phù hợp với lời khai của người làm chứng.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai nhân chứng, kết luận giám định có đủ cơ sở xác định Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm p, Khoản 2, Điều 194; điểm p, khoản 1, Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự
Áp dụng Nghị quyết 144/2016/NQ-QH ngày 29/6/2016. Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về việc áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội. Xử phạt:
Bị cáo Nguyễn Văn T từ 5 năm 06 tháng đến 6 năm tù. Phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự; Khoản 2, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 309/KLGĐ- PC54 ngày 22/02/2017 có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 1280 đã qua sử dụng và số tiền 1.200.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo Thành thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của các bị cáo, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, cụ thể: Nguyễn Văn T khai nhận phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và tang vật thu giữ do vậy HĐXX xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10h45’ ngày 22/02/2017 Nguyễn Văn T đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,2291 gam ma túy, là chất Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo có 02 tiền án: Bản án số 35/HSST ngày 11/6/2014 Tòa án huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên xử phạt bị cáo 09 tháng tù; Bản án số 75/HSST ngày 27/11/2015 của Tòa án huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên xử phạt bị cáo 15 tháng tù cũng về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo vừa ra trại ngày 30/11/2016 chưa được xóa án tích, bị cáo tiếp tục phạm tội mới nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” phạm vào khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận không tốt trên địa bàn. Trong khi cả xã hội ra sức loại bỏ tệ nạn nghiện hút ra khỏi đời sống cộng đồng thì bị cáo lại ngang nhiên tàng trữ ma túy, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo Thành.
Mặt khác, như chúng ta điều biết ma túy là hiểm họa của loài người, ngoài việc tiêu tốn tiền cho cơn nghiện, nguy hại hơn việc sử dụng ma túy là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS trong cộng đồng; làm ảnh hưởng tới sức khỏe bản thân, giống nòi...Ma túy còn gây nhiều hệ lụy khác cho xã hội. Do vậy, cần có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi mà bị cáo đã phạm mới có dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 02 tiền án, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung quy định tại khoản 2, Điều 194 Bộ luật hình sự, do vậy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p, khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Đồng thời căn cứ Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội về Thi hành Bộ luậ Hình sự; Nghị Quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội thì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù nên cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị của Đại điện Viện kiểm sát thành phố Bắc Ninh là có căn cứ và phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo Thành ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có số 309/KLGĐ- PC54 ngày 22/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động Nokia 1280 đã qua sử dụng và số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của bị cáo. Xét thấy đây là tài sản riêng của bị cáo không dùng vào việc phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị được xin lại, do vậy cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay.
Liên quan trong vụ án này: Có người đàn ông đã bán ma túy cho T nhưng T không biết rõ tên, tuổi và địa chỉ cụ thể của người này. Do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm p, khoản 2, Điều 194; điểm p, khoản 1, Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự; tuyên bố Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội. Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về việc áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội.
Xử phạt: Nguyễn Văn T 5 (Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2017. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 22/6/2017 để đảm bảo thi hành án.
- Áp dụng Điều 41, 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động Nokia 1280 đã qua sử dụng và số tiền 1.200.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư dán kín niêm phong có số 309/KLGĐ- PC54 ngày 22/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh. (Theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Bắc Ninh ngày 17/5/2017).
- Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qu y định án phí và lệ phí Tòa án buộc Nguyễn Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm là200.000 đồng.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 206/2017/HSST ngày 22/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 206/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về