Bản án 204/2017/HSST ngày 12/10/2017 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 204/2017/HSST NGÀY 12/10/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 203/2017/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo: Phạm Văn H - sinh năm: 1966.

Trú tại: Số nhà 915A LTN, khu 9, phường Hải Tân, thành phố HD, tỉnh HD.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12.

Con ông: Phạm Văn T (đó chết) và con bà Phạm Thị Ch - sinh năm: 1939.

Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Hoàng Thị Th, sinh năm: 1972. Bị cáo có 02 con, con lớn- sinh năm: 1992, con nhỏ- sinh năm: 1995.

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Biện pháp ngăn chặn: bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/9/2017 đến ngày 15/9/2017. Hiện đang thực hiện Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số: 101/LC-CQĐT ngày 15/9/2017của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố HD. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 17h20’ngày 14/9/2017, tại nhà số 915A LTN, phường Hải Tân, thành phố HD, Phạm Văn H đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề trái phép cho các anh Đặng Văn D với số tiền 1.710.000 đồng; anh Nguyễn Đức Đ với số tiền 1.810.000 đồng; anh Lê Bá T với số tiền 2.740.000 đồng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố HD phát hiện, bắt quả tang. Tổng số tiền bị cáo và các đối tượng trên dùng để đánh bạc là 6.260.000đ (Sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Hình thức đánh bạc mua bán số lô, số đề cụ thể như sau: Anh Đặng Văn D mua của H số lô 37 x 50 điểm; 61 x 30 điểm (1 điểm giá 20.000đồng); số lô xiên ba (37-75-00) x 100.000 đồng (được kHến mại 10.000đồng). H đồng ý và ghi các số lô trên vào hai mảnh giấy (một mảnh H lưu lại để trên bàn cũn một mảnh đưa cho D), D trả cho H 1.700.000 đồng. Anh Nguyễn Đức Đ mua của H số lô 34 x 50 điểm; 43 x 35 điểm; số đề 34, 43 x 50.000 đồng (mỗi số đề được kHến mại 5.000đồng). H đổng ý và ghi các số này vào hai mảnh giấy (một mảnh H lưu lại để trên bàn cũn một mảnh đưa cho Đ). Đ trả cho H 1.800.000 đồng. Anh Lê Bá T mua của H các số đề chập gồm 10 số từ 00 đến 99 x 100.000 đồng (được kHến mại 100.000 đồng); số đề 22,88 x 200.000 đồng; số lô 66; 61, 52 mỗi số 20 điểm (được kHến mại 40.000 đồng). H cũng ghi các số trên vào 02 mảnh giấy và đưa cho T một mảnh. T trả cho H số tiền 2.600.000 đồng. Như vậy, các số lô xiên ba, số đề, số lô cứ mua 10.000 đồng thì được kHến mại 1.000đồng. Khi đó, lực lượng Công an thành phố HD phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên tay H số tiền 6.100.000 đồng là tiền H vừa bán số lô, số đề cho D, Đ và T. Thu giữ trên tay D, Đ và T 3 mảnh giấy ghi lại số lô, số đề H đó bán cho họ và 3 mẩu giấy H để trên bàn là những mẩu giấy H lưu lại những số lô, số đề đó bán trên. Kết quả số đề được quy định chỉ so với 2 số cuối giải đặc biệt của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày. Nếu người mua số đề mà trùng với hai số cuối của giải đặc biệt thì sẽ được người bán trả gấp 70 lần số tiền đó bỏ ra mua trước đó. Đối với số lô thường, một điểm lô tương ứng 20.000 đồng, được quy định so với hai số cuối của tất cả các giải trong kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày. Nếu người mua số lô thường mà trùng với một giải thì người bán phải trả cho người mua 70.000 đồng/1 điểm lô, nếu trùng nhiều giải thì người bán phải trả cho người mua như sau: (số điểm x số giải trúng) x 70.000 đồng. Đối với số lô xiên 3, nghĩa là người mua một bộ ba số lô bất kỳ, được tính là trúng giải khi cả 3 số lô đó trùng với 2 số cuối của 3 giải trong kết quả xổ kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, người bán phải trả gấp 40 lần số tiền người mua đó bỏ ra mua trước đó. Ngược lại, người mua không trúng thì người bán sẽ được hưởng số tiền người mua đó bỏ ra mua cỏc số lô, số đề đó.

Đối với các anh Đặng Văn D, anh Nguyễn Đức Đ và anh Lê Bá T là người mua số lô, số đề của Phạm Văn H nhưng do số tiền sử dụng để đánh bạc của mỗi người dưới 5 triệu đồng và đều chưa bị kết án về tội này và tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự nên khụng phải chịu trách nhiệm hình sự, Cụng an thành phố HD đó ra cỏc Quyết định xử phạt hành chính đối với họ.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 204/QĐ-KSĐT ngày 29/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD đó truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi đó thực hiện, cụng nhận Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD đối với bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố và xác định số tiền bị cáo H và các đối tượng trên sử dụng vào việc đánh bạc là 6.260.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “Đánh bạc”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1 và khoản 4 Điều 30 Bộ luật hình sự.

+ Phạt tiền bị cáo Phạm Văn H từ 10 đến 15 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

2. Về hình phạt bổ sung: áp dụng điểm e khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H vì đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 6.100.000đ (Sáu triệu một trăm nghìn đồng) được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong (có đặc điểm như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 03/10/2017).

- Tịch thu của bị cáo Phạm Văn H số tiền 160.000đ (Một trăm sáu mươi nghìn đồng) sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo trong quỏ trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, với vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h20’ngày 14/9/2017, tại nhà số 915A LTN, phường Hải Tân, thành phố HD, Phạm Văn H đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề trái phép cho các anh Đặng Văn D với số tiền 1.710.000 đồng; anh Nguyễn Đức Đ với số tiền 1.810.000 đồng; anh Lê Bá T với số tiền 2.740.000 đồng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố HD phát hiện, bắt quả tang. Tổng số tiền bị cáo và các đối tượng trên dùng để đánh bạc là 6.260.000đ (Sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức bán số lô, số đề cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Căn cứ hướng dẫn tại tiết b điểm 5.2 khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, tổng số tiền bị cáo và các đối tượng khác sử dụng vào việc đánh bạc là 6.260.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: “Đánh bạc”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố đối với bị cáo theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, an toàn xã hội, gây mất trật tự trị an xã hội. Từ việc chơi bạc được, thua sát phạt nhau bằng tiền có thể là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt và là bài học răn đe cho những đối tượng còn ham mê cờ bạc. Có như vậy mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định hình phạt cho phù hợp với mức độ của hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ớt nghiêm trọng; quỏ trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải; mẹ đẻ bị cáo là bà Phạm Thị Ch được tặng H chương kháng chiến hạng Nhất nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính Ch, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo, phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 30 Bộ luật hình sự và buộc bị cáo phải nộp phạt 1 lần. Thời hạn nộp trong một tháng, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Quá thời hạn trên, nếu bị cáo chậm nộp tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự và Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Đối với các anh Đặng Văn D, anh Nguyễn Đức Đ và anh Lê Bá T là người mua số lô, số đề của Phạm Văn H nhưng do số tiền sử dụng để đánh bạc của mỗi người dưới 5 triệu đồng và đều chưa bị kết án về tội này và tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự nên khụng phải chịu trách nhiệm hình sự, Cụng an thành phố HD đó ra cỏc Quyết định xử phạt hành chính đối với họ là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: áp dụng điểm e khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Phạm Văn H vì đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với bị cáo.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: đối với số tiền 6.100.000 đồng là khoản tiền các đối tượng Đặng Văn D, Nguyễn Đức Đ và Lê Bá T mua số lô, số đề của bị cáo Phạm Văn H mà Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD đã thu giữ được và số tiền 160.000 đồng (tiền bị cáo H kHến mại cho người mua mà bị cáo H được hưởng vì thời điểm bị bắt giữ là trước khi có kết quả mở thưởng xổ số) là khoản tiền do bị cáo và các đối tượng đánh bạc phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 6.100.000 đồng trên và tịch thu của bị cáo H số tiền 160.000 đồng.

Về án phí: Bị cáo có hành vi phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “Đánh bạc”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1 và khoản 4 Điều 30 Bộ luật hình sự; tiết b điểm 5.2 khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số: 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

+ Phạt tiền bị cáo Phạm Văn H 13 (mười ba) triệu đồng sung quỹ Nhà nước. Tiền phạt nộp 1 lần. Thời hạn nộp trong một tháng, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

Quá thời hạn trên, nếu bị cáo Phạm Văn H chậm nộp tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

2. Về hình phạt bổ sung: áp dụng điểm e khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Phạm Văn H vì đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền với bị cáo.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 6.100.000đ (Sáu triệu một trăm nghìn đồng) được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong (có đặc điểm như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 03/10/2017).

- Tịch thu của bị cáo Phạm Văn H số tiền 160.000đ (Một trăm sáu mươi nghìn đồng) sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 204/2017/HSST ngày 12/10/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:204/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về