Bản án 203/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội trộm cắp tài sản​​​​​​​

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 203/2017/HSST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 185/2017/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên Hồ Hữu H (tên gọi khác: Bi), sinh năm 1997; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 7, ấp M, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; con ông Hồ Văn R, sinh năm 1971 và bà Tô Thị Thùy T, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 05 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án số 103/HSST ngày 27/4/2016. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 12/8/2016. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 23/8/2017 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Ông Hồ Chí T, sinh năm 1975. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Tạm trú: Ấp T, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Bích P, sinh năm 1975.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 5, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Hồ Hữu H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do cần tiền mua ma túy để sử dụng, Hồ Hữu H rủ Lê Văn C đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì C đồng ý. Khoảng 00 giờ ngày 20/8/2017, Lê Văn C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-562.05 đến chòi thuốc của gia đình bị cáo H thuộc ấp 3, xã T, huyện C để chở H đi trộm cắp tài sản, khi đi ngang qua dãy nhà trọ của bà Nguyễn Thị S tại ấp T, xã T, huyện C thì H phát hiện có 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68E1-190.51 dựng trước phòng trọ số 5 không có người trông giữ, H kêu C dừng xe lại đứng ở ngoài chờ, H vào dãy nhà trọ lén lút đẩy xe máy mang biển số 68E1-190.51 ra cửa rào, sau đó H ngồi lên xe máy vừa trộm được để C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2- 562.05 dùng chân đẩy về nhà của H ở ấp M, xã T, huyện C. Sau đó H tháo biển số68E1-190.51 vứt đi và lấy biển số 59Y2-562.05 gắn vào xe máy vừa trộm được, H tiếp tục gỡ dây điện ở ổ khóa xe Yamaha Sirius, nổ máy chạy về chòi thuốc ở ấp 3, xã T, huyện C. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, H tiếp tục điều khiển xe máy trộm được về nhà tại ấp M, xã T, huyện C, H tháo 02 vè chắn bùn ra cất trên đầu tủ. H thương lượng với C để H dùng xe vừa trộm được làm phương tiện đi lại, khi nào có tiền H sẽ đưa cho C 2.000.000đ (Hai triệu đồng) thì C đồng ý. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 22/8/2017, H điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius gắn biển số 59Y2-562.05 chở theo Nguyễn Minh H đi chơi, khi đến trạm xăng B thuộc ấp M, xã P, huyện C để mua xăng thì bị Công an xã P đang tuần tra đến kiểm tra, do cả hai không mang theo giấytờ tùy thân nên bị mời về Công an xã P làm việc, qua xét nghiệm ma túy phát hiện H có kết quả dương tính. Công an xã P bàn giao H cùng chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius gắn biển số 59Y2-562.05 cho Công an xã T, huyện C xử lý theo thẩm quyền. Tại Công an xã T, H khai nhận chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius do H trộm cắp mà có.

Tại bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 25/8/2017 của Ủy ban nhân dân huyện C kết luận xe máy hiệu Yamaha Sirius mang biển số 68E1-190.51 trị giá 11.000.000đ (Mười một triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 177/CTr-VKS-HS ngày 27/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố bị can Hồ Hữu H ra trước Toà án nhân dân huyện C để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây họi tắt là Bộ luật Hình sự). Tại phiên toà, bị cáo Hồ Hữu H thừa nhận hành vi phạm tội của mình và khai rằng: Do nghiện ma túy và cần tiền để mua ma túy sử dụng nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, bị cáo rủ Lê Văn C cùng đi trộm cắp tài sản. Lúc 00 giờ ngày 20/8/2017, C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-562.05 đến ấp 3, xã T, huyện C chở H đi trộm cắp tài sản, khi đến nhà trọ của bà Nguyễn Thị S tại ấp T, xã T, huyện C, bị cáo thấy chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68E1-190.51 dựng trước nhà trọ không có người trông giữ, bị cáo kêu C đứng đợi ngoài cửa rào còn bị cáo lén lút đi vào trong dãy nhà trọ đẩy chiếc xe máy trên ra cửa rào, tiếp đó bị cáo ngồi trên xe cho C dùng xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-562.05 đẩy về nhà tại ấp M, xã T, huyện C. Khi về nhà, H tháo biển số xe 59Y2-562.05 trên xe Honda Wave Alpha của C gắn vào xe máy hiệu Yamaha Sirius vừa trộm được, đồng thời C chở bị cáo đi vứt biển số xe máy 68E1-190.51 cách nhà bị cáo khoảng 400m; sau đó bị cáo tiếp tục gỡ dây điện của ổ khóa xe máy vừa trộm được, nổ máy chạy xe về chòi thuốc của gia đình bị cáo tại ấp 3, xã T, huyện C. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, bị cáo điều khiển xe máy trộm được về nhà tại ấp M, xã T, huyện C, vì sợ chủ xe nhận diện được xe vừa trộm nên bị cáo tiếp tục tháo 02 vè chắn bùn ra cất trên đầu tủ trong nhà bị cáo. Bị cáo còn bàn bạc thỏa thuận với C việc C để bị cáo sử dụng xe máy vừa trộm được làm phương tiện đi lại, khi nào có tiền bị cáo sẽ đưa cho C 2.000.000đ (Hai triệu đồng) thì C đồng ý. Lúc 01 giờ 30 phút ngày 22/8/2017, bị cáo điều khiển xe máy trộm được gắn biển số 59Y2-562.05 (biển số không hợp lệ) chở bạn tên Nguyễn Minh H đến trạm xăng B thuộc ấp M, xã P, huyện C để mua xăng thì bị Công an xã P, huyện C đang tuần tra đến kiểm tra, bị cáo và H không mang theo giấy tờ tùy thân nên bị mời về Công an xã P, huyện C làm việc. Qua xét nghiệm ma túy cho thấy bị cáo dương tính với ma túy, Công an xã P bàn giao bị cáo cho Công an xã T, huyện C. Tại Công an xã T, huyện C, bị cáo khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như bản cáo trạng đãnêu.

Tại phiên tòa, người bị hại là ông Hồ Chí T vắng mặt, lời khai của ông T tại cơ quan điều tra thể hiện ông xác định chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68E1-190.51 do ông là chủ sở hữu, ông đã được nhận lại chiếc xe máy nêu trên và không có ý kiến gì khác.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Bích P vắng mặt, lời khai của bà P tại cơ quan điều tra thể hiện: Bà là người đứng tên chủ sở hữu chiếcxe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-562.05. Năm 2014, bà điều khiển chiếc xe trên đi làm ruộng, bà dựng xe trên đường và xuống ruộng làm, khi làm xong bà lên đường thì phát hiện xe đã bị trộm mất, vì bận lo kinh tế gia đình, bà không trình báo với cơ quan có thẩm quyền. Bản chính Giấy đăng ký xe bà vẫn đang giữ. Nay bà đượcbiết cơ quan điều tra đang tạm giữ biển số xe 59Y2-562.05, vì xe mất đã lâu, bà không trình báo nên bà cũng không có nhu cầu nhận lại biển số xe. Bà cam kết không khiếu nại gì về sau.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C tham gia phiên tòa giữ quyền công tố phân tích tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Hồ Hữu H thừa nhận hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius mang biển số 68E1-190.51 trị giá 11.000.000đ (Mười một triệu đồng) - theo bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 25/8/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Hồ Hữu H về tội “Trộm cắp tài sản”. Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 138, Điểm p Khoản 1 Điều 46, Điểm g Khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hồ Hữu H mức án từ 12 đến 18 tháng tù; Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 59Y2-562.05. Đối với Lê Văn C cơ quan cảnh sát điều tra đang truy tìm, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo rất ăn năn hối hận vì hành vitrộm cắp tài sản của mình. Bị cáo mong được xử mức án nhẹ để sớm trở về lo làm ăn phụ giúp gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hồ Hữu H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, vụ án còn được chứng minh qua các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai của bị cáo, người bị hại, kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

[2] Như vậy đã có đủ cơ sở cho phép Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Hồ Hữu H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius mang biển số 68E1- 190.51 trị giá 11.000.000đ (Mười một triệu đồng) của ông Hồ Chí T. Hành vi nêu trên của  bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Hồ Hữu H về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Hồ Hữu H là nguy hiểm cho xã hội, vì mục đích có tiền mua ma túy sử dụng mà bị cáo đã hành động phạm tội nhằm thoả mãn động cơ tư lợi của cá nhân bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng một hình phạt nghiêm khắc và cách ly ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 27/4/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 05 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/8/2016. Bị cáo chưa được xóa án tích nhưng đến ngày 20/8/2017 lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xét cần áp dụng Điểm g Khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự để xem xét trước khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa. Do vậy Hội đồng xét xử xét cần áp dụng Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo phần nào về hình phạt là có căn cứ.

[5] Trong vụ án này theo bị cáo khai còn có người tên Lê Văn C (tự S) sinh năm 1990, ngụ tại ấp 4, xã T, huyện C cùng thực hiện hành vi phạm tội với bị cáo. Hiện Lê Văn C không còn ở địa phương, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện C đang truy tìm, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ông Hồ Chí T là người bị trộm cắp tài sản là 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius mang biển số 68E1-190.51 do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, ông T đã được nhận lại tài sản. Tại phiên tòa hôm nay, ông vắng mặt nhưng hồ sơ thể hiện ông không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét

- 01 (Một) chiếc xe máy mang biển số 68E1-190.51 (số khung: 5C6K0FY-210451, số máy: 5C6K-210452), 02 (Hai) yếm chắn gió phía trước màu đỏ đen hiệu Yamaha, 01 (Một) biển số xe 68E1-190.51, quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện C đã trả lại cho chủ sở hữu, Hội đồng xét xử không xét.

- 01 (Một) biển số xe 59Y2-562.05, bà Lê Bích P là chủ sở hữu không có yêu cầu nhận lại nên nên Hội đồng xét xử xét tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hồ Hữu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng Khoản 1 Điều 138, Điểm p Khoản 1 Điều 46, Điểm g Khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009); Xử phạt bị cáo Hồ Hữu H 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2017.

- Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009) và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003; Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) biển số xe 59Y2-562.05 theo Phiếu nhập kho vật chứng số 103/PNK ngày 19/10/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện C.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Luật Phí và lệ phí năm 2015, Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) buộc bị cáo Hồ Hữu H phải chịu.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Riêng người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội trộm cắp tài sản​​​​​​​

Số hiệu:203/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về