TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 202/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 169/2019/TLST-HS, ngày 09 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 689/2019/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thị N H(Tên gọi khác Linh), sinh năm: 1994; Giới tính: nữ; tại Cần Thơ. Đăng ký thường trú: 112/77 đường N T M K, phường A L, quận N K, thành phố C T; Chỗ ở: như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quan hệ gia đình: Cha tên: Nguyễn Thanh Tuấn (s); Mẹ tên: Hồ Thị Lệ Thu (s); Anh ruột: có 02 người (Lớn nhất sinh năm: 1989, nhỏ nhất sinh năm: 1992); Sống chung như vợ chồng với Đoàn Huỳnh Minh Châu; Con: Có 04 người con (Lớn nhất sinh năm: 2009, nhở nhất sinh năm: 2019); Tiền sự: chưa;
Tiền án: 02 lần,
+ Ngày 11/12/2013 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/8/2014; về án phí chưa chấp hành;
+ Ngày 04/4/2019 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa chấp hành án;
Bị Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự (năm 2015).
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13/7/2019 (Lệnh bắt bị can để tạm giam số 45, ngày 13/7/2019), hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn N T(Tên gọi khác Lu), sinh năm: 1987; Giới tính: nam; tại Hậu Giang. Đăng ký thường trú: 742/12A (742A/12), khu vực B Y A, phường L H, quận B T, thành phố C T; Chỗ ở: như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quan hệ gia đình: Cha tên: Nguyễn Ngọc Lạc (c); Mẹ tên: Quách Thị Bé (s); Chị ruột: có 02 người (Lớn nhất sinh năm: 1981, nhỏ nhất sinh năm: 1983); Bản thân chưa vợ, con;
Tiền sự: chưa;
Tiền án: chưa;
Bị Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (năm 2015).
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13/7/2019 (Lệnh bắt bị can để tạm giam số 46, ngày 13/7/2019), hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
1. Nguyễn K N, sinh năm: 1985, địa chỉ: 150 đường Ung Văn Khiêm, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Vắng mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1983, địa chỉ: số 196 đường Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; (Vắng mặt tại phiên tòa).
2. Bà Nguyễn Thị Bích L, sinh năm: 1983, địa chỉ: số 742A/12, khu vực Bình Yên A, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ; (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 10/7/2019 chị Nguyễn K N và nhân viên tên Nguyễn Thị Ngọc Giang đang bán hàng tại cửa hàng trang sức K N địa chỉ 150 Ung Văn Khiêm, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều. Lúc này Nguyễn N Tđiều khiển xe mô tô hiệu Wave biển số 65H7-0169, màu đỏ - đen chở Nguyễn Thị N H đến đậu trước của tiệm, Hân đi vào giả vờ hỏi chị Giang có thu mua đồ trang sức bằng bạc không, sau đó lợi dụng lúc chị Ngân không để ý đã lén lấy trộm 01 điện thoại Iphone XS Max của chị Ngân để trên khay đựng trang sức gần khu vực cầu thang rồi quay ra leo lên xe của Trung đang chờ sẳn tẩu thoát. Chị Ngân phát hiện mất điện thoại nên trình báo Công an phường.
Qua kiểm tra camera an ninh, Cơ quan điều tra đã tiến hành mời Nguyễn Thị N H và Nguyễn N T về làm việc.
Tại Cơ quan điều tra, Hân và Trung thừa nhận do cần tiền tiêu xài và chơi game nên cả 02 đã rủ nhau đi lấy trộm tài sản. Trung chở Hân bằng xe mô tô Wave màu đỏ đen biển số 65H7-0169 từ tiệm game Hải Triều gần chân cầu Quang Trung đến shop K N, Trung đậu xe ngoài đợi, Hân vào tiệm lợi dụng sơ hở lấy được điện thoại di động Iphone XS Max của chị Ngân rồi lên xe cho Trung chở đến tiệm điện thoại Châu Tùng đường Nguyễn Văn Cừ bán được 4.000.000 đồng chia nhau tiêu xài hết số tiền trên.
Tang vật thu giữ: 01 điện thoại di động Iphone XS Max (do anh Nguyễn Thanh T giao nộp); 01 xe mô tô hiệu Wave màu đỏ đen biển số 65H7-0169 (bút lục: 30, 31).
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 774/BKL-HĐĐG ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Ninh Kiều kết luận: giá trị còn lại của điện thoại di động Iphone Xs Max là 28.600.000 đồng (bút lục: 52).
Đối với anh Nguyễn Thanh T (Chủ cửa hàng điện thoại Châu Tùng) khi mua tài sản không biết tài sản do trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý. Anh Tùng yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 4.000.000 đồng đã mua điện thoại (bút lục: 70, 71).
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Ninh Kiều đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chị Nguyễn K N 01 điện thoại Iphone Xs Max, chị Ngân đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì bổ sung (bút lục: 17, 32).
Đối với xe mô tô Wave màu đỏ đen biển số 65H7-0169, qua xác minh xe trên do chị Nguyễn Thị Bích L mua lại của anh Hồ Ngọc Linh nhưng chưa làm thủ tục sang tên, việc Trung lấy xe đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản chị Liễu không biết (bút lục: 64-69).
Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKSNK, ngày 04 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố bị cáo Nguyễn Thị N H(Linh) về tội:“Trộm cắp tài sản” theo Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nguyễn N Tvề tội:“Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung cáo trạng, có phân tích hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N Hvà Nguyễn N Tvề tội:“Trộm cắp tài sản”;
Đề nghị áp dụng:
Áp dụng đối với bị cáo Hân Điểm g Khoản 2 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị N H(Linh) mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù và tổng hợp hình phạt theo Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.
Áp dụng đối với bị cáo Trung Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn N T(Lu) mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định.
Ghi nhận Cơ quan điều tra đã trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max cho bị hại Nguyễn K N, nên không đặt ra xem xét;
Trả lại cho bà Nguyễn Thị Bích L 01 (một) xe mô tô hiệu Wave màu đỏ - đen, biển số 65H7-0169.
Buộc hai bị cáo liên đới bồi thường số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) cho ông Nguyễn Thanh T.
Bị cáo Hân và Trung khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đã có hành vi lén lút lấy trộm tài sản là chiếc điện thoại hiệu Iphone Xs Max của bị hại Ngân ở của hàng trang sức K N lấy được tài sản cả hai đem đi bán tại của hàng điện thoại Châu Tùng và bắt tạm giam ngày 13/7/2019; Hai bị cáo thống nhất liên đới bồi thường số tiền 4.000.000 đồng cho người liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 10/7/2019 Nguyễn N Tđiều khiển xe mô tô hiệu Wave biển số 65H7-0169, màu đỏ - đen chở Nguyễn Thị N Hđến đậu trước của tiệm K N, Hân đi vào giả vờ hỏi chị Ngân có thu mua đồ trang sức bằng bạc không, sau đó lợi dụng lúc chị Ngân không để ý đã lén lấy trộm 01 điện thoại Iphone XS Max của chị Ngân để trên khay đựng trang sức gần khu vực cầu thang rồi quay ra leo lên xe của Trung đang chờ sẳn tẩu thoát, cả hai đem bán tại của hàng điện thoại Châu Tùng sau đó qua xác minh lực lượng công an bắt quả tang cùng tang vật, tài sản là chiếc điện thoại do người liên quan giao nộp được định giá theo Kết luận định giá tài sản số 774/BKL-HĐĐG ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Kết luận giá trị còn lại của chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max 28.600.000 đồng (Hai mươi tám triệu sáu trăm ngàn đồng). Do đó, hành vi của hai bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Trộm cắp tài sản” bị cáo Hân có hai tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, ngày 10/7/2019 tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản là tái phạm nguy hiểm nên bị truy tố theo Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; bị cáo Trung ngày 10/7/2019 cùng đi trộm với bị cáo Hân, bản thân chưa có tiền án tiền sự nên bị truy tối theo Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Lời khai của hai bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với tang vật thu giữ và các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ. Vì vậy, Hội đồng xét xử khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố hai bị cáo theo tội danh và điều khoản luật đã nêu là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Về hành vi: Hai bị cáo là lén lút lợi dụng việc mua bán bộn bề của bị hại, bị cáo Hân giả vờ làm mất sự chủ ý gây nên sơ hở của bị hại trong việc quả lý tài sản bị cáo Hân đã lấy được tài sản của bị hại là chiếc điện thoại di động ra xe Trung chở đi bán, hành vi của hai bị cáo là cố ý, hành vi này đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Hai bị cáo là người có đủ năng lực hành vi dân sự, trong độ tuổi lao động không lo chí thú làm ăn có công việc kiếm tiền một cách chính đáng. Vì lười lao động muốn có tiền tiêu xài không phải lao động chính đáng, nên hai bị cáo đã lựa chọn con đường trộm cắp. Trong vụ việc qua điều tra và tại phiên tòa thể hiện hai bị cáo cùng nhau đi tìm tài sản để trộm, với mục đích trộm được tài sản về bán cùng nhau chia tiền tiêu xài cá nhân. Tuy nhiên, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ với nhau, không có sự phân công rõ ràng, không có người chủ mưu… Nên Hội đồng xét xử xem đây là đồng phạm giản đơn; Trong vụ án này vai trò của bị cáo Hân là vào trực tiếp lấy tài sản, bị cáo Trung dùng xe mô tô chở đồng bọn tẩu thoát khi lấy được tài sản nên vai trò của hai bị cáo người trực tiếp, người giúp sức để đạt được mục đích việc phạm tội nên hai bị cáo phải gánh chịu hậu quả pháp lý ngang nhau; đối với bị cáo Hân có 02 tiền án nên xét đây là tài phạm nguy hiểm bị cáo phải gánh chịu hậu quả pháp lý cao hơn bị cáo Trung. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc và cách ly hai bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cho hai bị cáo sửa chữa bản thân và cũng để phòng ngừa chung cho các hành vi tương tự trong xã hội.
[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa và quá trình điều tra hai bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã trả lại cho bị hại. Nên Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo được hưởng tình tiết theo Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Về các tình tiết tăng nặng: Do bị cáo Hân bị áp dụng tình tiết định khung của các tiền án nên không áp dụng là tình tiết tăng nặng.
[6] Về xử lý tang vật, vật chứng: Ghi nhận việc Cơ quan điều tra - Công an quận Ninh Kiều đã trả lại một điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max cho chị Nguyễn K N, theo Quyết định xử lý vật chứng số 83, ngày 13/7/2019 và tại phiên tòa chị Ngân vắng mặt nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có tranh chấp và có yêu cầu.
Đối với xe mô tô hiệu Wave màu đỏ - đen, biển số 65H7-0169, qua xác minh là tài sản cá nhân của bà Nguyễn Thị Bích L, việc 02 bị cáo sử dụng đi trộm cắp tài sản bà Liễu không biết. Do vậy, trả lại xe cho bà Liễu là phù hợp.
[7] Về án phí:
Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Án phí dân sự sơ thẩm: Do hai bị cáo phải liên đới bồi thường số tiền 4.000.000 đồng cho người liên quan ông Nguyễn Thanh T nên hai bị cáo phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng); Mỗi bị cáo phải chịu là 150.000 đồng án phí dân sự.
[8] Xét thấy lời trình bày của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận;
[9] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên – Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[10] Về tổng hợp hình phạt: Căn cứ Khoản 3 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thị N Hsẽ do Cơ quan Thi hành án hình sự đề nghị Chánh án Tòa án có thẩm quyền tổng hợp hình phạt của các bản án. Do có nhiều bản án có hiệu lực chưa thu thập đầy đủ theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N H(Linh) phạm tội:“Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ vào Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, Tuyên bố bị cáo Nguyễn N T(Lu) phạm tội:“Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị N H(Linh) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 13/7/2019.
Về tổng hợp hình phạt: Căn cứ Khoản 3 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 Chánh án có thẩm quyền tổng hợp sau.
- Căn cứ vào Khoản 1 điều 173; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn N T01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 13/7/2019.
Về xử lý tang vật, vật chứng:
Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tung hình sự;
Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Ghi nhận việc Cơ quan điều tra - Công an quận Ninh Kiều đã trả lại một điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max cho chị Nguyễn K N, theo Quyết định xử lý vật chứng số 83, ngày 13/7/2019 và tại phiên tòa chị Ngân vắng mặt nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có tranh chấp và có yêu cầu.
Trả lại xe mô tô hiệu Wave màu đỏ, biển số 65H7-0169 (số máy VPJL1P50FMG054615, số khung VPJDCG013PJ054615) cho bà Nguyễn Thị Bích L khi án có hiệu lực pháp luật;
Buộc hai bị cáo bồi thường số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) (Mỗi bị cáo bồi thường 2.000.000 đồng) cho ông Nguyễn Thanh T khi án có hiệu lực pháp luật.
Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án phí dân sự: Hai bị cáo phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (Mỗi bị cáo phải chịu là 150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm).
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án (14/11/2019) đối với các bị cáo có mặt; kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương nơi cư trú của bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án thành phố Cần Thơ xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 202/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 202/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về