Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 05/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị Y và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ Y VÀ ANH T

Ngày 05 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số 489/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị Y và anh T” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXX-ST ngày 05 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị Y, sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn L, xã S, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

Bị đơn: Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn G, xã B, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Dương Thị Y trình bày: Năm 2018, chị kết hôn với anh Nguyễn Công T. Trước khi kết hôn chị và anh T có được tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Lạng Giang. Sau đám cưới chị về chung sống cùng anh T ngay. Anh chị sống hòa thuận, hạnh phúc được gần một năm thì nẩy sinh mâu thuẫn. Vợ chồng thường xuyên xẩy ra cãi nhau. Nguyên nhân do anh T không chung thủy với chị, phải lòng người phụ nữ khác. Hai bên gia đình đã khuyên bảo nhưng anh T không thay đổi. Tháng 7/2020, chị đã dẫn theo con nhỏ về nhà mẹ đẻ chị ở. Từ đó chị và anh T sống ly thân, chấm dứt mọi quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T đã hết, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có một con chung là Nguyễn M Anh, sinh ngày 22/01/2020, đang ở với chị. Ly hôn, chị đề nghị được nuôi con, chị yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con từ 1.500.000đ đến 2.000.000đ/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị và anh T đều đang làm tại công ty, thu nhập từ 7.000.000đ đến 8.000.000đ/người/tháng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung đối với tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, bị đơn anh Nguyễn Công T trình bày: Về quá trình kết hôn, thời điểm sống ly thân như chị Y đã trình bày. Nay chị Y xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Y có một con chung là Nguyễn M Anh, sinh ngày 22/01/2020, hiện cháu đang ở với chị Y. Ly hôn, anh đề nghị được nuôi con, anh không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị Y được ly hôn anh T. Về con chung: Giao con cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc T phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Y từ 1.500.000đ đến 2.000.000đ/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung đối với tài sản không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự. Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Công T vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chị Dương Thị Y có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[2].Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Các đương sự có đơn thỏa thuận được giải quyết vụ việc tại Tòa án nhân dân huyện Lục Nam. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

[3]. Về quan hệ hôn nhận: Chị Dương Thị Y kết hôn với anh Nguyễn Công T trên cơ sở được tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Lạng Giang ngày 16/3/2018 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Ban đầu vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc, sau đó nẩy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống. Chị Y, anh T sống ly thân, chấm dứt mọi quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế đã lâu, ai sống thế nào thì mặc, không ai quan tâm đến ai. Xét mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa chị Y và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị Y xin ly hôn, anh T đồng ý nên cần được chấp nhận.

[4]. Về con chung: Chị Y và anh T có con chung là Nguyễn M Anh, sinh ngày 22/01/2020 đang ở với chị Y. Ly hôn, chị Y, anh T đều có nguyện vọng được nuôi con. Xét cháu Nguyễn M Anh chưa đủ 36 tháng tuổi, nên giao cháu cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Y, đại diện viện kiểm sát đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con cho chị T từ 1.500.000đ đến 2.000.000đ/tháng là phù phù hợp cần được chấp nhận. Buộc anh Nguyễn Công T phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Dương Thị Y là 1.500.000đ/tháng, kể từ ngày tuyên án cho đến khi cháu Nguyễn M Anh đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung đối với tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Chị Dương Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 24, khoản 1 Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Dương Thị Y ly hôn anh Nguyễn Công T.

2. Về con chung: Giao con cháu Nguyễn M Anh, sinh năm 2020 cho chị Dương Thị Y tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Công T phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Dương Thị Y là 1.500.000đ/tháng, kể từ ngày tuyên án cho đến khi cháu Nguyễn M Anh đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Công T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Việc thăm nom con không được để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Án phí: Chị Dương Thị Y phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0005050 ngày 20/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Anh Nguyễn Công T phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự vắng mặt biết, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 05/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị Y và anh T

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về