Bản án 20/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 13 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn L, sinh năm 1994 tại Đ - Tên gọi khác: không;       Giới tính: Nam - Nơi cư trú: ấp 2A, xã X, huyện X, tỉnh Đ.

- Quốc tịch: Việt Nam;  Dân tộc: Kinh;  Tôn giáo: Thiên chúa.

- Nghề nghiệp: Không;  Trình độ học vấn: 8/12 - Họ và tên cha: Phạm Văn S, sinh năm 1963:

- Họ và tên mẹ: Mai Thị Ph, sinh năm 1966.

- Bị cáo là con thứ 3 trong gia đình có 06 chị em và chưa có vợ con.

- Tiền án: 03 + Ngày 15/7/2010, bị Toà án nhân dân huyện Định Quán xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 10/6/2011, L chấp hành xong hình phạt tù:

+ Ngày 07/11/2012, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 28/02/2014, L chấp hành xong hình phạt tù:

+ Ngày 19/7/2016, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 09/8/2019, L chấp hành xong hình phạt tù.

- Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/11/2019 và tạm giam cho đến nay.

2. Họ và tên: Trần Thảo H, sinh năm 1997 tại Đ.

- Tên gọi khác: Không;       Giới tính: Nam - Nơi cư trú: ấp 3A, xã X, huyện X, tỉnh Đ.

- Quốc tịch: Việt Nam;   Dân tộc: Kinh;  Tôn giáo: Thiên chúa.

- Nghề nghiệp: Không;   Trình độ học vấn: 9/12 - Họ và tên cha: Trần Văn T (đã chết) - Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1961.

- Bị cáo là con út trong gia đình có 05 chị em và chưa có vợ con.

- Tiền án: 02 + Ngày 27/3/2015, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

+ Ngày 05/4/2016, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xử phạt 02 năm 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của Bản án số 33 ngày 27/3/2015, buộc H phải chấp hành hình phạt của 02 Bản án là 03 năm 04 tháng tù. Ngày 04/9/2018, H chấp hành xong hình phạt tù.

- Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/11/2019 và tạm giam cho đến nay.

3. Họ và tên: Nguyễn Quốc T, sinh năm 1987 tại Đ.

- Tên gọi khác: Cu   Giới tính: Nam - Nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đ.

- Quốc tịch: Việt Nam;   Dân tộc: Kinh;  Tôn giáo: Thiên chúa.

- Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản;    Trình độ học vấn: 7/12 - Họ và tên cha: Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1962:

- Họ và tên mẹ: Đặng Thị H, sinh năm 1962.

- Bị cáo là con thứ 2 trong gia đình có 04 chị em và chưa có vợ con.

- Tiền án: 02 + Ngày 25/3/2008, bị Toà án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 28/8/2012, T chấp hành xong hình phạt tù.

+ Ngày 10/12/2015, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 30/3/2018, T chấp hành xong hình phạt tù.

- Tiền sự: Ngày 01/3/2019, bị Công an huyện Trảng Bom xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Ngoài ra, ngày 01/11/2019, bị cáo còn bị Công an huyện Trảng Bom khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” xảy ra trên địa bàn huyện Trảng Bom.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom.

4. Họ và tên: Lý Xuân B, sinh năm 1975 tại thành phố H.

- Tên gọi khác: không;        Giới tính: Nam - Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định.

- Quốc tịch: Việt Nam;    Dân tộc: Kinh;  Tôn giáo: không.

- Nghề nghiệp: Thợ cắt kính;  Trình độ học vấn: 9/12 - Họ và tên cha: Lý Tấn T (chết).

- Họ và tên mẹ: Phạm Thị B (chết).

- Bị can là con thứ 6 trong gia đình có 07 chị em.

- Họ và tên vợ: Nguyễn Thị Hồng P, sinh năm 1980 và có 02 người con sinh năm 2002 và năm 2009.

- Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/11/2019 và tạm giam cho đến nay.

(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa) * Bị hại:

1. Ngô Bá Th, sinh năm 1979 (Vắng mặt):

2. Nguyễn Thị Y, sinh năm 1985 (Vắng mặt):

Cùng địa chỉ: ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đ.

* Người làm chứng:

1. Trần Văn Đ, sinh năm 1985 (Vắng mặt):

2. Phùng Thị Y1, sinh năm 1994 (Vắng mặt):

Cùng địa chỉ: ấp 2A, xã X, huyện X, tỉnh Đ.

3. Lê Mộng Ng, sinh năm 1977 (Vắng mặt):

4. Du Quốc T1, sinh năm 1973 (Vắng mặt):

Cùng địa chỉ: phường 10, quận A, thành phố H.

5. Trần Quốc B, sinh năm 1975; Địa chỉ: phường 10, quận a, thành phố H (Vắng mặt)

6. Hà Thị M, sinh năm 1994; Địa chỉ: ấp V, xã H, huyện P, tỉnh B. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 09/11/2019, Phạm Văn L và Trần Thảo H gặp nhau tại nhà anh Trần Văn Đ, sinh năm 1985 ngụ ấp 2A, xã X, huyện X nên L rủ H đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì H đồng ý. Đến 23 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu đen, gắn biển số 60B2-603.28 chở H đi về hướng xã Xuân Đông, huyện Cẩm Mỹ để trộm cắp. Khi đi cả hai chuẩn bị ớt bột, ná cao su, bình xịt hơi cay, gậy ba khúc, kìm cộng lực, tuốc nơ vít để làm công cụ phá khoá cửa, đồng thời nếu bị phát hiện sẽ dùng ớt bột, ná cao su, gậy ba khúc để chống trả.

Đến khoảng 02 giờ 50 phút ngày 10/11/2019, cả hai đi tới xưởng gỗ ĐL của vợ chồng anh Ngô Bá Th và chị Nguyễn Thị Y thì thấy cổng không khoá nên H đi bộ vào trong xưởng gỗ thì thấy 01 điện thoại di động hiệu OPPO; 02 chìa khoá xe để trên bàn và 02 xe mô tô hiệu Honda SH đang dựng bên cạnh nên H lấy điện thoại và chìa khoá xe bỏ vào túi quần, đi đến trộm xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67 rồi cùng L chạy về hướng ngã ba Bảo Chánh, huyện Xuân Lộc giấu xe mô tô sau một khóm cây gần đó.

L và H tiếp tục quay lại xưởng gỗ ĐL trộm xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, biển số 60B6-379.84 rồi chạy xe về nhà anh Đ giấu. Sau đó, L chở H đi đến ngã ba Bảo Chánh lấy xe mô tô Honda SH 150 đem đến khu vực nghĩa địa xã Xuân Bắc giấu rồi quay lại nhà anh Đ. Lúc này, L gọi điện thoại cho một người đàn ông tên H1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để bán xe thì H1 bảo L đi đến quận 4, thành phố Hồ Chí Minh nên L điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH mode, biển số 60B6- 379.84 còn H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 60H1-192.41 đi về hướng thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến cầu Sài Gòn thì gặp H1 nên H1 dẫn đến 01 quán cà phê tại quận 4, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người tên L1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) bán xe mô tô hiệu Honda SH mode, biển số 60B6-379.84 và xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 60H1-192.41 cho L1 được 20.000.000 đồng. L cho H1 2.000.000 đồng tiền công giới thiệu.

Sau đó, L1 gọi điện thoại cho Lý Xuân B đến quán cà phê lấy xe mô tô hiệu Honda SH mode, biển số 60B6-379.84 đem đi sửa vì trước đó giữa L1 và B có thoả thuận nếu khi nào L1 mua được xe gian sẽ giao cho B sửa chữa, tân trang, Lợi bán xe được giá cao hơn sẽ trả tiền công cho B mỗi xe từ 300.000 đồng đến 1.000.000 đồng. B điều khiển xe mô tô trên đến tiệm sửa xe của anh Du Quốc T1 tại số 100/3 T, phường 10, quận A để sửa lại pass pô của xe nhưng anh T1 chưa ngủ dậy nên B gửi xe lại và thuê xe Grab quay lại quán cà phê chỗ L1, L, H1, H đang ngồi thì có một người đàn ông bạn của L1 nhờ B điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 60DH1-192.41 đi rửa. B chở người này đến tiệm rửa xe tại số 350 T, phường 4, quận A để rửa. Sau đó, L1 nhờ B chở L, còn L1 chở H ra bến xe Hàng Xanh đón xe về lại huyện X. Một lúc sau, B quay lại quán sửa xe của anh T1 để lấy xe mô tô hiệu Honda SH mode nhưng anh T1 chưa ngủ dậy nên B tự sửa xe rồi nhờ chị Lê Mộng Ng (vợ anh T1) đem xe đến tiệm rửa xe 350 T để rửa. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, B nhờ chị Ng chở đến tiệm rửa xe để lấy xe về thì bị Công an mời lên làm việc. Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ, B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Đối với xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67, sau khi từ thành phố H về lại xã X thì H gọi điện trao đổi và thoả thuận bán cho Nguyễn Quốc T với giá 17.00.000 đồng. Sau đó, L chở H đi đến khu vực nghĩa địa xã X lấy xe mô tô hiệu Honda SH 150, biển số 60B6-382.67 rồi H điều khiển xe đi đến chỗ hẹn ở xã S để gặp T giao xe và nhận 17.000.000 đồng. L, H chia nhau tiêu xài hết số tiền bán xe. Đến ngày 12/11/2019, L và H bị bắt giữ.

Sau khi mua xe, T tháo biển số cũ ra và lắp biển số 60D1-363.77 vào xe mô tô Honda SH 150 để tránh bị phát hiện. Sau đó, T đem xe gửi tại nhà bạn gái là chị Hà Thị M ở ấp V, xã P, huyện P, tỉnh B. Đến ngày 19/11/2019, chị Hà Thị M đã giao nộp xe mô tô trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 51/KL-HĐĐG ngày 13/11/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cẩm Mỹ kết luận:

+ 01 xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67 có giá trị là 58.200.000 đồng:

+ 01 xe mô tô hiệu Honda SH mode, màu vàng nâu, biển số 60B6-379.84 có giá trị là 40.800.000 đồng Tổng cộng giá trị của 02 xe mô tô tại thời điểm bị chiếm đoạt là 99.000.000 đồng.

 Vật chứng vụ án:

- 01 mũ bảo hiểm màu xanh trắng có ghi dòng chữ điện máy-điện lạnh-điện gia dụng Xuân Thiện; 01 mũ kết màu xanh sọc đen 02 bên; 01 khẩu trang vải có chấm đỏ, đen, sọc xanh; 02 bình xịt hơi cay Take Down.0055; 01 kìm cộng lực dài 35cm, cán sơn màu xanh và được bọc nhựa màu đen; 02 gậy 03 khúc (một màu hồng, một màu đen); 01 mỏ lết 10’’-250mm có cán bọc nhựa màu đen; 01 chạng ná cao su và 20 viên đá nhỏ cỡ 1-2; 01 tuốc nơ vít, một đầu bake, một đầu dẹp dài 20cm có cán màu trắng xanh; 03 bịch ớt bột; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, gắn sim số 0392419157; 02 cuộn băng keo màu đen đã qua sử dụng; 01 máy nghe nhạc hiệu Bose-model 414225-made in Mexico, màu xám có viền đen; 01 ba lô màu đen và xanh có ghi dòng chữ “quà lưu niệm” màu trắng; 01 áo khoác nam màu xám bạc, nhãn hiệu QP Fashion có in dòng chữ Adidas màu đen hai bên ống tay thu giữ của Trần Thảo H:

- 01 mũ bảo hiểm màu xanh, hiệu GRS, kiểu A102K, có kính chắn gió phía trước; 01 khẩu trang vải sọc caro màu xám đen; 01 gậy 03 khúc, cán quấn dây dù màu xanh; 01 áo khoác nam màu đỏ đen, hiệu Zona house, bên trong túi áo có 01 bịch ớt bột; 01 áo khoác nam dạng vải thun không nhãn hiệu, một mặt màu trắng, một mặt màu đen; 01 chạng ná cao su, cán bằng gỗ quấn băng keo màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, gắn sim số 0785294679 thu giữ của Phạm Văn L:

- 01 xe mô tô hiệu Honda SH mode, màu vàng nâu, biển số 60B6-379.84 và 01 xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67 đã được thu hồi và trả lại cho bị hại:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO, không rõ đời máy, sau khi chiếm đoạt thấy điện thoại đã bị hỏng nên H đã vứt bỏ, không thu hồi được; đồng thời do điện thoại đã cũ nên anh Th không yêu cầu gì:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu đen, số khung: RLCUG0610JY640489, số máy: G3D4E-666820, gắn biển số: 60B2-603.28. Qua xác minh, đây là xe mô tô được đăng ký với biển số 60B2-555.07 do anh Võ Thanh T, sinh năm 1997 ngụ khu phố B, phường B, thành phố L đứng tên chủ sở hữu và bị mất trộm vào ngày 18/3/2019 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ đã bàn giao cho Công an thành phố Long Khánh xử lý theo thẩm quyền. Riêng biển số 60B2-603.28 gắn trên xe Yamaha Exciter 150 là của anh Phan Minh Đ, sinh năm 1989 ngụ khu phố B, phường B, thành phố L nhưng hiện anh Đ không có mặt tại địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ tách ra, khi nào làm việc được với anh Đ sẽ xử lý sau:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 60H1-192.41 là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 08/11/2019 tại ấp Tân Thành, xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ đã bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom để tiếp tục xử lý theo thẩm quyền:

- Đoạn video trích xuất tại camera an ninh do anh Ngô Bá Th giao nộp ghi lại diễn biến hành vi phạm tội của Trần Thảo H, Phạm Văn L vào ngày 10/11/2019 và 01 đoạn video ghi lại quá trình cho các bị can H, L diễn lại hành vi đột nhập vào xưởng gỗ ĐL của anh Th trộm cắp xe mô tô đã được niêm phong, đưa vào hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Ngô Bá Th, và chị Nguyễn Thị Y đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu gì thêm về dân sự.

Bản cáo trạng số: 18/CT-VKS-CM ngày 06 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Phạm Văn L, Trần Thảo H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm đ khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Lý Xuân B về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai vẫn giữ nguyên cáo trạng.

- Bị cáo Phạm Văn L, bị cáo Trần Thảo H, bị cáo Nguyễn Quốc T, bị cáo Lý Xuân B nói lời sau cùng: các bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi cấu thành tội phạm:

- Đối với hành vi cấu thành tội Trộm cắp tài sản của 2 bị cáo Phạm Văn L và Trần Thảo H: khoảng 23 giờ ngày 09/11/2019, L điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu đen, gắn biển số 60B2-603.28 chở H đi về hướng Xuân Đông, huyện Cẩm Mỹ để trộm cắp. Đến khoảng 02 giờ 50 phút ngày 10/11/2019, cả 2 đến xưởng gỗ nhà anh Ngô Bá Th và chị Nguyễn Thị Y, do thấy cổng không khóa nên H đi bộ vào trong xưởng gỗ thì thấy 01 điện thoại di động hiệu OPPO; 02 chìa khoá xe để trên bàn và 02 xe mô tô hiệu Honda SH đang dựng bên cạnh nên H lấy điện thoại và chìa khoá xe bỏ vào túi quần và dắt xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67 ra ngoài, rồi cùng L chạy về hướng ngã ba Bảo Chánh, huyện Xuân Lộc giấu xe mô tô sau một khóm cây gần đó.

L và H tiếp tục quay lại xưởng gỗ nhà anh Th trộm xe mô tô Honda SH mode, màu vàng nâu, biển số 60B6-379.84 rồi chạy xe về nhà anh Đ giấu. Sau đó, L chở H đi đến ngã ba Bảo Chánh lấy xe mô tô Honda SH 150 đem đến khu vực nghĩa địa xã X giấu rồi quay lại nhà anh Đ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 51/KL-HĐĐG ngày 13/11/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cẩm Mỹ kết luận:

+ 01 xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67 có giá trị là 58.200.000 đồng:

+ 01 xe mô tô hiệu Honda SH mode, màu vàng nâu, biển số 60B6-379.84 có giá trị là 40.800.000 đồng Tổng cộng giá trị của 02 xe mô tô tại thời điểm bị chiếm đoạt là 99.000.000 đồng.

 Như vậy, hành vi của L và H lén lút lấy trộm 2 chiếc xe mô tô của anh Ngô Bá Th và chị Nguyễn Thị Y đã cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị 99.000.000 đồng và vì cả bị cáo L bị TAND huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp tái phạm và chưa được xóa án tích. Bị cáo H bị TAND huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp tái phạm và chưa được xóa án tích. Vì vậy, lần phạm tội này của 2 bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Nên hành vi các bị cáo phạm tội trong vụ án này thuộc trường hợp quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

- Đối với hành vi cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”: Sau khi lấy được xe, L gọi điện thoại cho 1 người đàn ông tên H1 (chưa rõ nhân thân) để bán xe thì H1 bảo L đem xe đến quận A, Tp. H. L điểu khiển xe mô tô hiệu Honda Sh Mode 60B6-379.84, còn H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 60H1-192.41 đi về hướng Tp. H. Khi đến Cầu S thì gặp H1, H1 dẫn đến quán cà phê quận A gặp 1 người tên L1 (chưa rõ nhân thân) bán 1 chiếc xe trên cho L1 được 20.000.000 đồng. L cho H1 2.000.000 đồng tiền công giới thiệu. Sau đó, L1 điện thoại cho Lý Xuân B đem chiếc xe Honda SH mode đi sửa, vì giữa B và L1 có thỏa thuận việc L1 mua xe gian sẽ giao cho B tân trang bán kiếm lời sẽ cho B từ 300.000 đồng đến 1.000.000 đồng.

Đối với xe mô tô hiệu Honda Sh 150, biển số 60B6-382.67, sau khi từ Tp. H về lại huyện X, H gọi điện thoại thỏa thuận bán cho Nguyễn Quốc T với giá 17.000.000 đồng. H và L giao xe cho T và nhận 17.000.000 đồng chia nhau tiêu xài. Đối với T sau khi nhận xe đã tháo biển số cũ và lắp lại biển số 60D1-363.77 và đem xe gửi tại nhà bạn gái là chị Hà Thị M.

Bản thân Nguyễn Quốc T đã bị Tòa án nhân dân tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vào ngày 10/12/2015, thuộc trường hợp tái phạm và chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 323 BLHS.

Các bị cáo là người đã trưởng thành, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nên bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Bản thân bị cáo L và H đã từng bị Tòa án xử phạt về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Nhưng các bị cáo không hối cải, sửa chữa bản thân mà nay còn tiếp tục phạm tội mới. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu hợp pháp của người khác, đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo T dù biết là xe do H trộm cắp nhưng vì ham rẻ mà bị cáo đồng ý mua xe. Bị cáo Lý Xuân B cùng thỏa thuận với đối tượng tên L1, sau khi L1 thu mua xe gian, B sẽ đem đi sửa chữa bán lấy tiền lời.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; bản kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án… Đã có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng của VKSND huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Phạm Văn L, bị cáo Trần Thảo H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 BLHS; bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm đ khoản 2 Điều 323 BLHS và bị cáo Lý Xuân B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 BLHS là phù hợp.

Để đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, HĐXX cần xem xét toàn bộ các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Các tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: đối với bị cáo L, H và T phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nhưng thuộc trường hợp định khung nên không xem đó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nên các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo L và H là đồng phạm giản đơn, L là người rủ rê H trộm cắp, L đứng ngoài làm nhiệm vụ cảnh giới, còn H là người trực tiếp lấy tài sản; cả 2 cùng tìm kiếm người để tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có. Vì vậy, xét thấy hành vi phạm tội của 2 bị cáo L và H là ngang nhau nên phải chịu mức hình phạt ngang nhau là phù hợp.

Với những nhận định trên xét cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành một công dân tốt, có ích cho xã hội.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKSND huyện Cẩm Mỹ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt:

- Bị cáo Phạm Văn L và Trần Thảo H với mức án từ: 03 năm đến 3 năm 06 tháng tù:

- Bị cáo Nguyễn Quốc T mức án từ: 03 năm đến 3 năm 06 tháng tù, tổng hợp hình phạt với bản án số 24/2020/HSST ngày 14/02/2020 của TAND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung:

- Bị cáo Lý Xuân B mức án từ: 07 tháng đến 10 tháng tù.

Ý kiến của VKS phù hợp với ý kiến của HĐXX nên ghi nhận.

[3]Xử lý vật chứng vụ án:

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy đối với các vật chứng không còn giá trị sử dụng:

+ 01 mũ bảo hiểm màu xanh trắng có ghi dòng chữ điện máy-điện lạnh-điện gia dụng Xuân Thiện; 01 mũ kết màu xanh sọc đen 02 bên; 01 khẩu trang vải có chấm đỏ, đen, sọc xanh; 02 bình xịt hơi cay Take Down.0055; 01 kìm cộng lực dài 35cm, cán sơn màu xanh và được bọc nhựa màu đen; 02 gậy 03 khúc (một màu hồng, một màu đen); 01 mỏ lết 10’’-250mm có cán bọc nhựa màu đen; 01 chạng ná cao su và 20 viên đá nhỏ cỡ 1-2; 01 tuốc nơ vít, một đầu bake, một đầu dẹp dài 20cm có cán màu trắng xanh; 03 bịch ớt bột; sim số 0392419157; 02 cuộn băng keo màu đen đã qua sử dụng; 01 ba lô màu đen và xanh có ghi dòng chữ “quà lưu niệm” màu trắng; 01 áo khoác nam màu xám bạc, nhãn hiệu QP Fashion có in dòng chữ Adidas màu đen hai bên ống tay thu giữ của Trần Thảo H:

+ 01 mũ bảo hiểm màu xanh, hiệu GRS, kiểu A102K, có kính chắn gió phía trước; 01 khẩu trang vải sọc caro màu xám đen; 01 gậy 03 khúc, cán quấn dây dù màu xanh; 01 áo khoác nam màu đỏ đen, hiệu Zona house, bên trong túi áo có 01 bịch ớt bột; 01 áo khoác nam dạng vải thun không nhãn hiệu, một mặt màu trắng, một mặt màu đen; 01 chạng ná cao su, cán bằng gỗ quấn băng keo màu đen; sim số 0785294679 thu giữ của Phạm Văn L.

- Tuyên trả lại cho bị cáo Trần Thảo H: 01 máy nghe nhạc hiệu Bose-model 414225-made in Mexico, màu xám có viền đen:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen của Trần Thảo H và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202 của Phạm Văn L, đây là điện thoại H và L sử dụng vào việc phạm tội nên là công cụ phạm tội nên tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

- 01 xe mô tô hiệu Honda SH mode, màu vàng nâu, biển số 60B6-379.84 và 01 xe mô tô hiệu Honda SH 150, màu xanh đen, biển số 60B6-382.67 đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, nên không đặt ra xem xét.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO, không rõ đời máy, sau khi chiếm đoạt thấy điện thoại đã bị hỏng nên H đã vứt bỏ, không thu hồi được; đồng thời do điện thoại đã cũ nên anh Th không yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu đen, số khung: RLCUG0610JY640489, số máy: G3D4E-666820, gắn biển số: 60B2-603.28. Qua xác minh, đây là xe mô tô được đăng ký với biển số 60B2-555.07 do anh Võ Thanh T, sinh năm 1997 ngụ khu phố B, phường B, thành phố L đứng tên chủ sở hữu và bị mất trộm vào ngày 18/3/2019 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ đã bàn giao cho Công an thành phố Long Khánh xử lý theo thẩm quyền. Riêng biển số 60B2-603.28 gắn trên xe Yamaha Exciter 150 là của anh Phan Minh Đ, sinh năm 1989 ngụ khu phố B, phường B, thành phố L nhưng hiện anh Đ không có mặt tại địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ tách ra, khi nào làm việc được với anh Đ sẽ xử lý sau.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 60H1-192.41 là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 08/11/2019 tại ấp Tân Thành, xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ đã bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom để xử lý theo thẩm quyền.

- Đoạn video trích xuất tại camera an ninh do anh Ngô Bá Th giao nộp ghi lại diễn biến hành vi phạm tội của Trần Thảo H, Phạm Văn L vào ngày 10/11/2019 và 01 đoạn video ghi lại quá trình cho các bị can H, L diễn lại hành vi đột nhập vào xưởng gỗ ĐL của anh Th trộm cắp xe mô tô đã được niêm phong, đưa vào lưu hồ sơ vụ án.

[4] Về biện pháp tư pháp: Đối với số tiền 20.000.000 đồng có được từ việc bán xe Honda Sh mode và Honda Vision, theo 2 bị cáo H và L cho rằng mỗi chiếc xe bán với giá là 10.000.000 đồng. Đối với chiếc xe Honda Vision biển số 60H1- 192.41, H cho rằng mua lại mà không biết xe trộm cắp, sau đó đem bán. Và chiếc xe trên đã giao về cho Công an huyện Trảng Bom xử lý, nên số tiền bán được 10.000.000 đồng từ chiếc xe Honda Vision biển số 60H1-192.41 trên sẽ được điều tra xử lý sau. Đối với số tiền bán được 10.000.000 đồng từ việc bán xe Sh mode và 17.000.000 đồng có được từ việc bán xe Honda Sh 150. Tổng số tiền các bị cáo L và H có được từ việc phạm tội là 27.000.000 đồng. Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS, buộc các bị cáo L và H nộp số tiền 27.000.000 đồng (mỗi bị cáo nộp 13.500.000 đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.

[4]Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận được tài sản và không có yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: các Bị cáo L, H, T và B mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn L, Trần Thảo H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Nguyễn Quốc T, bị cáo Lý Xuân B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Áp dụng điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 38 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: bị cáo Phạm Văn L: 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ: ngày 12/11/2019.

- Xử phạt: bị cáo Trần Thảo H: 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ: ngày 12/11/2019.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 38 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc T: 03 (ba) năm tù.

Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù tại bản án số 24/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 của TAND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T phải chấp hành hình phạt chung: 06 (sáu) năm tù. Thời hạn từ tính ngày bị bắt tạm giữ: ngày 16/11/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: bị cáo Lý Xuân B: 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ: ngày 11/11/2019.

* Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 mũ bảo hiểm màu xanh trắng có ghi dòng chữ điện máy-điện lạnh-điện gia dụng Xuân Thiện; 01 mũ kết màu xanh sọc đen 02 bên; 01 khẩu trang vải có chấm đỏ, đen, sọc xanh; 02 bình xịt hơi cay Take Down.0055; 01 kìm cộng lực dài 35cm, cán sơn màu xanh và được bọc nhựa màu đen; 02 gậy 03 khúc (một màu hồng, một màu đen); 01 mỏ lết 10’’-250mm có cán bọc nhựa màu đen; 01 chạng ná cao su và 20 viên đá nhỏ cỡ 1-2; 01 tuốc nơ vít, một đầu bake, một đầu dẹp dài 20cm có cán màu trắng xanh; 03 bịch ớt bột; sim số 0392419157; 02 cuộn băng keo màu đen đã qua sử dụng; 01 ba lô màu đen và xanh có ghi dòng chữ “quà lưu niệm” màu trắng; 01 áo khoác nam màu xám bạc, nhãn hiệu QP Fashion có in dòng chữ Adidas màu đen hai bên ống tay; 01 mũ bảo hiểm màu xanh, hiệu GRS, kiểu A102K, có kính chắn gió phía trước; 01 khẩu trang vải sọc caro màu xám đen; 01 gậy 03 khúc, cán quấn dây dù màu xanh; 01 áo khoác nam màu đỏ đen, hiệu Zona house, bên trong túi áo có 01 bịch ớt bột; 01 áo khoác nam dạng vải thun không nhãn hiệu, một mặt màu trắng, một mặt màu đen; 01 chạng ná cao su, cán bằng gỗ quấn băng keo màu đen; sim số 0785294679.

- Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202.

- Trả lại cho bị cáo Trần Thảo H: 01 máy nghe nhạc hiệu Bose-model 414225- made in Mexico, màu xám có viền đen:

Hiện vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

- Về biện pháp tư pháp: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS.

Buộc bị cáo Phạm Văn L, bị cáo Trần Thảo H mỗi bị cáo nộp số tiền 13.500.000 đồng (mười ba triệu năm trăm nghìn đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về án phí: Điều 135 BLTTHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Phạm Văn L, Trần Thảo H, Nguyễn Quốc T và Lý Xuân B mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về