Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 16/04/2020 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG 

BẢN ÁN 20/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 16 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công Ki vụ án thụ lý số: 59/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXX - ST, ngày 20 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm: 1984; địa chỉ: Tổ 13, khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Ngô Văn Th, sinh năm: 1978; địa chỉ: Tổ 13, khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Trần Văn N, sinh năm: 1963; địa chỉ: Khu phố 2, phường P, thành phố H, tỉnh K; vắng mặt.

3.2. Bà Trần Thị Th1, sinh năm: 1958; địa chỉ: Tổ 13, khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K; vắng mặt.

3.3. Ông Trần Văn K, sinh năm: 1965; địa chỉ: Tổ 4, ấp V, xã SK, huyện H, tỉnh K; vắng mặt.

4. Những người tham gia tố tụng khác:

4.1. Cháu Ngô Mỹ U, sinh ngày 03/8/2005; địa chỉ: Tổ 13, khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K; có mặt.

4.2. Cháu Ngô Trần Bảo Tr, sinh ngày 14/01/2008; địa chỉ: Tổ 13, khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/02/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Trần Thị T trình bày:

Chị và chồng là anh Ngô Văn Th tự tìm hiểu, yêu thương nhau, cưới nhau ngày 05/12/2003, có đăng ký hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn S, huyện H, tỉnh Ki. Vợ chồng chung sống với nhau đến khoảng 2015 thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi. Quá trình chung sống anh, chị có hai đứa con chung tên Ngô Mỹ U, sinh ngày 03/8/2005 và Ngô Trần Bảo Tr, sinh ngày 14/01/2008, các con hiện đang ở chung với vợ chồng. Về tài sản chung: Anh, chị có 01 căn nhà ngang 6m x dài 15m tọa lạc tại khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K trị giá 400.000.000 đồng. Đất cặp mé sông chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về nợ chung: Nợ ông Trần Văn N số tiền là 30.000.000 đồng, nợ bà Trần Thị Th1 số tiền là 80.000.000 đồng và nợ ông Trần Văn K số tiền là 80.000.000 đồng, tổng cộng là 190.000.000 đồng.

Theo đơn khởi kiện, chị T yêu cầu được ly hôn với anh Th, yêu cầu được nuôi các con chung, không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, chị yêu cầu được quản lý và sử dụng căn nhà, chị sẽ đưa lại cho anh Th ½ giá trị căn nhà là 200.000.000 đồng. Về nợ chung, chị yêu cầu chia đôi nợ chung, chị và anh Th mỗi người chịu trách nhiệm trả số tiền là 95.000.000 đồng.

Tại bản tự khai ngày 10/3/2020 và tại phiên tòa, chị T rút yêu cầu chia tài sản chung do chị và anh Th đã bán căn nhà và tự phân chia tài sản. Về nợ chung: Ông K, ông N, bà Th1 và vợ chồng anh, chị sẽ tự thỏa thuận việc thanh toán nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Th do anh Th không thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận tại văn bản thỏa thuận ngày 10/3/2020 nên không thể hàn gắn được. Về con chung yêu cầu giải quyết việc nuôi con theo nguyện vọng của các con, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại bản tự khai ngày 25/02/2020 và tại phiên tòa bị đơn là anh Ngô Văn Th trình bày:

Anh xác định lời trình bày của chị T về hôn nhân, con chung là đúng. Anh không đồng ý ly hôn vì cho rằng giữa anh và chị T không có mẫu thuẫn, anh đi làm ăn xa, một năm chỉ về nhà vài lần nên không thường xuyên cự cãi như chị T trình bày. Thời gian gần đây vợ chồng anh có cự cãi vài lần liên quan việc nợ nần của chị T, sau khi lên Tòa án hòa giải vợ chồng đã thống nhất bán tài sản để trả nợ và cùng lên Bình Dương sinh sống. Tuy nhiên, sau khi bán căn nhà chị T đã đổi ý không rút đơn khởi kiện và tiếp tục yêu cầu ly hôn. Về con chung, anh yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai đứa con chung vì chị T không đủ điều kiện nuôi.

Về tài sản chung: Tại văn bản thỏa thuận ngày 10/3/2020 anh xác định anh và chị T đã thống bán căn nhà để trả nợ chung nên anh không tranh chấp. Tại phiên tòa, anh Th thay đổi ý kiến yêu cầu chị T đưa cho anh số tiền chia tài sản chung là 100.000.000 đồng anh mới đồng ý ly hôn.

Tại bản tự khai ngày 20/02/2020, cháu Ngô Mỹ U có nguyện vọng sống với mẹ khi cha, mẹ ly hôn. Tại bản tự khai ngày 31/3/2020 và tại phiên tòa cháu U thay đổi ý kiến, có nguyện vọng sống với cha khi cha, mẹ ly hôn.

Tại bản tự khai ngày 21/02/2020 và tại phiên tòa, cháu Ngô Trần Bảo Tr có nguyện vọng sống với mẹ khi cha, mẹ ly hôn.

Tại bản tự khai ngày 10/3/2020, ông Trần Văn N xác định anh Th, chị T còn nợ ông số tiền là 30.000.000 đồng. Giữa ông và vợ chồng anh Th, chị T sẽ tự thỏa thuận việc thanh toán nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt tại Tòa án.

Tại bản tự khai ngày 10/3/2020, bà Trần Thị Th1 xác định anh Th, chị T còn nợ bà số tiền là 80.000.000 đồng. Bà và vợ chồng anh Th, chị T sẽ tự thỏa thuận việc thanh toán nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà Th1 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt tại Tòa án.

Tại bản tự khai ngày 10/3/2020 ông Trần Văn K xác định anh Th, chị T còn nợ bà số tiền là 80.000.000 đồng. Anh Th, chị T đã trả cho ông số tiền là 50.000.000 đồng, số tiền còn lại ông và vợ chồng anh, chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông K có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Trần Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Ngô Văn Th, giải quyết việc nuôi con nên quan hệ tranh chấp của vụ án là tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS).

Anh Th với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại khu phố S, thị trấn S, huyện H, tỉnh K nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Các ông, bà Trần Văn K, Trần Văn N và Trần Thị Th1 có đơn yêu cầu xin giải quyết vắng mặt. Xét thấy, sự vắng mặt của các ông, bà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông, bà và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 của BLTTDS.

Tại phiên tòa, chị T rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc chia tài sản và thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản nên Tòa án đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị T theo quy định tại khoản 2 Điều 244 của BLTTDS.

[2] Về nội dung:

Chị T và anh Th kết hôn vào năm 2013 và đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn S, huyện H, tỉnh K nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Tại phiên tòa, chị T cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Th vì cho rằng mâu thuẫn giữa chị với anh Th đã đến mức trầm trọng, không thể chung sống hạnh phúc được nữa. Anh Th không đồng ý ly hôn vì xác định giữa anh và chị T không có mẫu thuẫn. Tuy nhiên, anh không đưa ra được giải pháp hàn gắn mối quan hệ vợ chồng để chị T quay về chung sống.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên và cho anh, chị thời gian để hàn gắn quan hệ vợ chồng nhưng đến nay vẫn không hàn gắn được. Tại phiên tòa, các cháu Ngô Mỹ U và Ngô Trần Bảo Tr là con chung của anh, chị cũng xác định cha, mẹ thường xuyên cãi nhau, gây ảnh hưởng đến tâm lý của các cháu.

Xét thấy, vợ chồng anh, chị tuy không sống ly thân nhưng mẫu thuẫn ngày càng lớn làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị T yêu cầu được ly hôn với anh Th là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Tòa án chấp nhận.

Về nuôi con: Anh, chị có 02 đứa con chung Ngô Mỹ U, sinh ngày 03/8/2005 và Ngô Trần Bảo Tr, sinh ngày 14/01/2008, các con hiện đang ở chung với vợ chồng anh, chị. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa cháu U có nguyện vọng sống với cha và cháu Tr có nguyện vọng sống với mẹ khi cha, mẹ ly hôn. Tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.”. Anh Th yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai đứa con chung vì cho rằng chị T không có khả năng nuôi, còn chị T yêu cầu giải quyết theo nguyện vọng của con. Xét thấy, yêu cầu của chị T phù hợp với nguyện vọng của các con và phù hợp với quy định của pháp luật đã được viện dẫn như trên nên được Tòa án chấp nhận. Giao cháu U cho anh Th trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và giao cháu Tr cho chị T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành; trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật. Chị T, anh Th được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Th, chị T có việc làm và có thu nhập ổn định, đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu, không ai yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết.

Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án anh Th, chị T có văn bản thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Tại phiên tòa, anh Th yêu cầu chị T phải đưa cho anh số tiền chia tài sản chung là 100.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án anh Th chưa làm đơn yêu cầu phán tố cũng như thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 199, 200 của BLTTDS nên Tòa án không giải quyết trong vụ án này. Nếu anh Th, chị T có tranh chấp thì có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.

Về nợ chung: Các ông bà Trần Văn K, Trần Văn N, Trần Thị Th1 không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp đối với yêu cầu chia tài sản chung.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc chia tài sản và thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản của nguyên đơn là chị Trần Thị T. Chị T có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Thị T được ly hôn với anh Ngô Văn Th.

3. Về nuôi con:

Giao cháu Ngô Mỹ U, sinh ngày 03/8/2005 cho anh Th trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành; trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật.

Giao cháu Ngô Trần Bảo Tr, sinh ngày 14/01/2008 cho chị T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành; trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật.

Chị T, anh Th được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền ngăn cản.

Cháu U có nguyện vọng sống với cha, cháu Tr có nguyện vọng sống với mẹ khi cha, mẹ ly hôn.

4. Về án phí:

Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp đối với yêu cầu chia tài sản khi ly hôn. Chị T được khấu trừ số tiền án phí phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009358 ngày 14/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòn Đất. Chị T được nhận lại số tiền là 4.700.000 đồng (bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 16/04/2020 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:20/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về