Bản án 20/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Văn Chấn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2019/TLST- HS ngày 07 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

HOÀNG VĂN Đ, sinh ngày 15/02/1996 tại huyện V, tỉnh Yên Bái.

Nơi cư trú: Thôn R, xã B, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Hoàng Thị P; vợ con chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự, Quyết định số 08/QĐ-XPHC ngày 12/4/2018 của Trưởng Công an xã N, huyện V xử phạt vi phạm hành chính đối với Hoàng Văn Đ. Hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/3/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. “ Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn Đ:

Bà Nguyễn Thị H, trợ giúp viên pháp lý Chi nhánh số 1 - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái. “ Có mặt”.

- Bị hại: Hoàng Thị X, sinh năm 1982; trú tại: Thôn R, xã B, huyện V, tỉnh Yên Bái. “ Có mặt”.

- Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Nguyễn Thị T, sinh năm 1962; trú tại: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Yên Bái. “ Vắng mặt”.

- Người làm chứng:

1. Hoàng Đình K, sinh năm 1986; trú tại: Thôn Q, xã B, huyện V, tỉnh Yên Bái. “ Vắng mặt”.

2. Hoàng Minh Q, sinh năm 1990; trú tại: Thôn T, xã N,huyện V, tỉnh Yên Bái. “ Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mối quan hệ họ hàng, nên khoảng 14 giờ ngày 03/3/2019 Đ đi bộ từ nhà đến nhà chị X ở cùng thôn R, xã B, huyện V để hỏi mượn xe mô tô của chị X đi có việc, chị X đồng ý cho Đ mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 21V2-8191, nhãn hiệu YAMAHA và nói với Đ đi nhanh rồi về trả xe cho chị. Sau khi mượn được xe, Đ đi tìm mua ma túy nhưng không mua được, đến 18 giờ cùng ngày Đ gặp Hoàng Đình K, Đ rủ K đi mua ma túy, K và Đ mỗi người điều khiển 01 chiếc xe mô tô đi đến thôn T, xã N, huyện V thì gặp Q, lúc này Đ nảy sinh ý định mang xe mô tô của chị X đi cầm đồ lấy tiền mua ma túy. Đ nói với Q là xe mô tô của Đ và hỏi Q “có biết chỗ nào cắm xe máy không?” Quang trả lời “ Ở N không có, nếu muốn cắm phải đi M”, Đ nhất trí, Q điều khiển xe mô tô của chị X chở Đ, còn K đi xe của K đến nhà bà Nguyễn Thị T thuộc thôn C, xã T, huyện V. Tại đây Đ cầm chiếc xe mô tô của chị X cho bà T được số tiền 2.000.000 đồng rồi cùng K và Q mua ma túy sử dụng và tiêu sài hết 1.200.000 đồng, còn lại 800.000 đồng Đ cho Q vay. Đến chiều ngày 04/3/2019 không thấy Đ mang xe về trả, chị X có làm đơn trình báo lên cơ quan Công an để giải quyết. Tại cơ quan điều tra Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên và thừa nhận bản thân không có khả năng chuộc lại xe mô tô để trả lại cho chị X.

Bản kết luận định giá tài sản số 04/KLĐG ngày 06/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Chấn kết luận: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 21V2-8191, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS của chị X bị Đ chiếm đoạt có trị giá 5.500.000 đồng.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS-VC ngày 07/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Chấn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn Đ về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, * Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Chấn, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị như sau:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

- Về hình phạt chính: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 18 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Chấp nhận cơ quan điều tra công an huyện Văn Chấn đã trả lại cho chị X 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 21V2-8191, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS.

* Người bào chữa cho bị cáo Đ, trình bày lời bào chữa, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù.

Bị cáo là người dân tộc thiểu số thuộc vùng đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc diện hộ nghèo đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí đối với bị cáo.

- Bị cáo thành khẩn khai báo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện, ngày 03/3/2019 lợi dụng sự tin tưởng của gia đình chị Hoàng Thị X tại thôn R, xã B, huyện V, tỉnh Yên Bái, bị cáo Đ đã mượn xe chiếc mô tô biển kiểm soát 21V2-8191, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS của gia đình chị X để đi có việc, hứa hẹn là sẽ mang trả nhưng sau đó Đ đã mang chiếc xe mô tô đi cầm cho bà T được số tiền 2.000.000 đồng để lấy tiền mua ma túy sử dụng, bản thân Đ sau khi cắm xe không có khả năng chuộc xe để trả lại cho gia đình chị X; trị giá chiếc xe mà Đại chiếm đoạt của gia đình chị X là 5.500.000 đồng. Hành vi đó của bị Đ đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cũng như tính chất của vụ án. Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải xử lý bị cáo một cách nghiêm khắc, với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại Trại giam để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người lương thiện, đồng thời góp phần răn đe, phòng ngừa và trấn áp tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo Đại có nguồn thu nhập chính từ làm ruộng, bản thân là người nghiện ma túy và không có tài sản riêng. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

- Chấp nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Chấn đã trả lại cho chị X 01 chiếc mô tô biển kiểm soát 21V2-8191, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Chị Hoàng Thị X đã nhận lại xe mô tô và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Bà T không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền 2.000.000 đồng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong vụ án này còn có:

Bà T là người cho Đ cầm đồ xe mô tô, nhưng bà T không biết chiếc xe mô tô này do Đ phạm tội mà có, nên cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với K và Q là những người đi cùng với Đ cầm đồ chiếc xe mô tô để lấy tiền mua ma túy sử dụng cùng nhau, nhưng họ không biết chiếc xe mô tô này do Đ phạm tội mà có, nên cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đ, K và Q Công an huyện Văn Chấn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với họ là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

[2] Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo 06/3/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đ được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo, chị X có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

- Bà Tcó quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:20/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Chấn - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về