Bản án 20/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU – TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lý Hồng T, sinh năm: 1996 tại huyện Z, tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn H và bà Trần Thị U; chồng: ông Đào Văn P và 02 con; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: chưa bị xử lý hành chính và chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

2. Phạm Thị Tân D, sinh năm: 1971 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: ấp X1, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình B và bà Nguyễn Thị N; chồng: ông Nguyễn Văn T và 02 con; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: chưa bị xử lý hành chính và chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03-01-2019 đến ngày 11-01- 2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác chờ xử lý. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 30 phút, ngày 03-01-2019, Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Phạm Thị Tân D đang đánh bạc bằng hình thức bán số đề tại nhà ở ấp X1, xã Y, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ người và tang vật để làm rõ.

Qua điều tra, D khai nhận: Vào tháng 8/2018 tổ chức bán số đề tại nhà cho một số người tại địa phương với hình thức ghi số vào tờ giấy giao cho người mua 01 tờ và giữ lại 01 tờ để sau giờ xổ số đối chiếu kết quả; tỷ lệ thắng đề 02 con 01 thắng 70, đề 03 con 01 thắng 600, đề đá (mua 02 con số khác nhau nếu kết quả xổ số có 02 số đã mua thì trúng) 01 thắng 600. Hàng ngày, sau khi bán số đề cho khách D tổng hợp những số có giá trị trên 50.000 đồng giao phơi qua tin nhắn cho Lý Hồng T, 40.000 đồng giao phơi qua tin nhắn cho Nguyễn Thị H, để hưởng 7% tiền huê hồng. Ngày 03/01/2019, D bán 177 con số đề đài Tây Ninh cho Ngô Thị U, Cao Kỳ D1, Nguyễn Văn T, Võ Văn B, Nguyễn Thị C và khoảng 20 người khác không rõ lai lịch với số tiền 9.755.000 đồng. D tổng hợp 75 số đề với số tiền 8.075.000 đồng gửi qua 02 tin nhắn cho T và tổng hợp 50 con số đề với số tiền 967.900 đồng gửi qua 03 tin nhắn cho H thì bị bắt quả tang.

Lý Hồng T khai nhận: có thoả thuận nhận số đề của D. Ngày 03/01/2019, nhận 75 số đề với số tiền 8.075.000 đồng của D qua 02 tin nhắn thì bị phát hiện.

Nguyễn Thị H khai nhận: có thoả thuận nhận số đề của D. Ngày 03/01/2019, nhận 50 con số đề với số tiền 967.900 của D qua 03 tin nhắn thì bị phát hiện.

Ngô Thị U, Cao Kỳ D1, Nguyễn Văn T, Võ Văn B, Nguyễn Thị C khai nhận: ngày 03/01/2019, có trực tiếp đến nhà của D để mua số đề, cụ thể U mua 02 số đề với số tiền 67.000 đồng, D1 mua 02 số đề với số tiền 52.800 đồng, T mua 05 số đề với số tiền 66.000 đồng, B mua 02 số đề với số tiền 67.000 đồng, C mua 02 số đề với số tiền 67.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

+ 03 cuộn giấy màu trắng có ghi số đề (phơi đề) được đánh số thứ tự từ 01-52 và có chữ ký của Phạm Thị Tân D.

+ Tiền Việt Nam 28.730.000 đồng.

+ 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Nokia 1280, số IMEI 357902/05/193801/3, bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0972131485.

+ 03 cây viết bít nhãn hiệu “TL-ogo Candee 06mm”: 02 cây màu đỏ, 01 cây xám trắng.

+ 07 tờ giấy than loại nhỏ. Kê biên tài sản: không có.

Hành vi mua số đề của Ngô Thị U, Cao Kỳ D1, Nguyễn Văn T, Võ Văn B, Nguyễn Thị C chưa đến mức xử lý hình sự nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính xong.

Đi với hành vi nhận số đề của Nguyễn Thị H là vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và không đủ căn cứ chứng minh H đồng phạm với D, T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu đã chuyển Ủy ban nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt hành chính xong.

Phạm Thị Tân D khai giao phơi đề cho Lý Hồng T và Nguyễn Thị H từ tháng 8/2018 nhưng không thu giữ được phơi đề nên không đủ cơ sở xử lý các lần này.

Tại phiên toà, các bị cáo Lý Hồng T, Phạm Thị Tân D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, cùng vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 22/CT-KSĐT ngày 25 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố Lý Hồng T và Pham Thị Tân D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lý Hồng T từ 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng đến 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phạm Thị Tân D từ 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng đến 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

- Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng theo qui định pháp luật.

Bị cáo T nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo D nói lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo là lao động chính trong gia đình, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Ngày 03-01-2019, bị cáo Nguyễn Thị Tân D đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức bán 177 số đề cho Ngô Thị U, Cao Kỳ D1, Nguyễn Văn T, Võ Văn B, Nguyễn Thị C và khoảng 20 người không rõ lai lịch với tổng cộng số tiền 9.755.000 đồng. Sau đó, bị cáo D đã giao lại 75 số đề cho bị cáo Lý Hồng T với số tiền 8.075.000 đồng để hưởng tiền huê hồng 7% và giao 50 con số đề cho Nguyễn Thị H với số tiền 967.900 đồng để hưởng tiền huê hồng 7% thì bị bắt quả tang. Tại phiên toà, bị cáo T và bị cáo D thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với người khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác được thu giữ. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Phạm Thị Tân D và Lý Hồng T đã phạm tội “Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Đi với hành vi nhận số đề của Nguyễn Thị H là vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và không đủ căn cứ chứng minh Nguyễn Thị H đồng phạm với Phạm Thị Tân D, Lý Hồng T nên Công an huyện Bến Cầu đã chuyển Ủy ban nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt hành chính xong.

[3] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân các bị cáo là người đã thành niên, biết đánh bạc dưới mọi hình thức thắng thua bằng tiền là pháp luật nghiêm cấm nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân các bị cáo đã thực hiện. Hành vi của các bị cáo gây mất trật tự trị an ở địa phương, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tính chất vụ án và mức độ phạm tội của từng bị cáo thì thấy rằng: Các bị cáo phạm tội là đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, không có bàn bạc phân công vai trò, không có sự câu kết chặt chẽ với nhau nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình đã thực hiện. Trong vụ án này, bị cáo T là chủ đề, nhận số đề từ bị cáo D nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo D, bị cáo D trực tiếp bán số đề cho người khác và giao lại cho bị cáo T để hưởng tiền huê hồng nên bị cáo D chịu trách nhiệm hình sự sau bị cáo T.

[5] Hành vi mua số đề của Ngô Thị U, Cao Kỳ D1, Nguyễn Văn T, Võ Văn B, Nguyễn Thị C chưa đến mức xử lý hình sự nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính xong.

[6] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo T là phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tại phiên tòa, đề nghị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền là có căn cứ. Bởi lẽ, các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, là phụ nữ, có nơi cư trú rõ ràng, bản thân các bị cáo đã ăn năn hối cải, đồng thời cả hai bị cáo đều có tài sản nên xét thấy phạt hai bị cáo một khoản tiền cũng đủ răn đe, giáo dục cho các bị cáo biết chấp hành pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền Việt Nam 28.730.000 đồng, trong đó có số tiền 9.755.000 đồng là do bị cáo D thực hiện hành vi phạm tội mà có nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước, còn lại 18.975.000 đồng là tiền của bị cáo D không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo D nhưng tiếp tục tạm giữ số tiền này để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

- Đối với 03 (ba) cây viết bít nhãn hiệu “TL-ogo Candee 06mm”: 02 cây màu đỏ, 01 cây xám trắng dùng để thực hiện tội phạm không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Nokia 1280, số IMEI 357902/05/193801/3, bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0972131485 là phương tiện bị cáo D dùng liên lạc mua bán số đề nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 03 (ba) cuộn giấy màu trắng có ghi số đề (phơi đề) được đánh số thứ tự từ 01-52 và có chữ ký của Phạm Thị Tân D là vật chứng đưa vào lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với 07 (bảy) tờ giấy than loại nhỏ không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

- Tiếp tục thực hiện Lệnh phong tỏa tài khoản số: 01/2019/HSST-LPTTK ngày 18-4-2019 đối với số tài khoản số 5708205154xxx tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh mang tên Phạm Thị Tân D để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

- Tiếp tục thực hiện Lệnh phong tỏa tài khoản số: 02/2019/HSST-LPTTK ngày 22-4-2019 đối với số tài khoản số 050103058xxx tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Phòng giao dịch huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh mang tên Lý Hồng T để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

[10] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, buộc bị cáo D và bị cáo T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lý Hồng T và Phạm Thị Tân D phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lý Hồng T số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phạm Thị Tân D số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: số tiền 9.755.000 (chín triệu bảy trăm năm mươi lăm nghìn) đồng; 01 (một) điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Nokia 1280, bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0972131485.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 18.975.000 (mười tám triệu chín trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng của bị cáo Phạm Thị Tân D để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu huỷ: 03 (ba) cây viết bít nhãn hiệu “TL-ogo Candee 06mm”; 07 (bảy) tờ giấy than loại nhỏ.

(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27-3-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

- Tiếp tục thực hiện Lệnh phong tỏa tài khoản số: 01/2019/HSST-LPTTK ngày 18-4-2019 đối với số tài khoản số 5708205154xxx tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh mang tên Phạm Thị Tân D để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

- Tiếp tục thực hiện Lệnh phong tỏa tài khoản số: 02/2019/HSST-LPTTK ngày 22-4-2019 đối với số tài khoản số 050103058xxx tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Phòng giao dịch huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh mang tên Lý Hồng T để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị Tân D, bị cáo Lý Hồng T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Thị Tân D, bị cáo Lý Hồng T được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:20/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về