Bản án 20/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 01/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019, đối với:

Bị cáo Phạm Văn C, sinh năm 1992, tại tỉnh Thái Bình. HKTT: thôn B, xã T, huyện Th, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: phòng trọ đường 30 tháng 4, phường R, TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: bảo vệ; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị D; vợ: Trương Thị M; con: không có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14 tháng 10 năm 2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn C là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 17 giờ ngày 14/10/2018 C mua ma túy của một phụ nữ không rõ lai lịch ở TP. Hồ Chí Minh (C quen qua mạng xã hội, C gửi tiền và nhận ma túy theo dịch vụ chuyển hàng qua tuyến xe TP. Hồ Chí Minh - TP. V) với giá 1.000.000đ để sử dụng. Đến 19 gờ 20 cùng ngày, tại khu vực ngã tư đường Lê Quý Đôn - Trần Hưng Đạo, Phường 1, TP. V, C bị bắt quả tang đang tàng trữ: 01 gói nylon bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt (C khai là ma túy tổng hợp, loại hàng đá). Sau đó, C đã tự khai và giao nộp 01 gói nylon bên trong chứa chất bột mịn màu trắng (C khai là chất ma túy, loại “Khay”) mà C đã cất giấu tại chỗ ở của mình.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 gói nylon bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt và 01 góinylon bên trong chứa chất bột mịn màu trắng; 01 điện thoại hiệu Sam Sung, 01 điện thoại hiệu OPPO và 01 xe mô tô biển số 72L4-80XX.

Tại Bản kết luận giám định số: 297/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 23 tháng 10 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:

“1. Mẫu chất kết tinh không màu- trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín (mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự: 01), có hình dấu của Công an p1 – CA TP V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Trung H, Nguyễn Thành H, Phạm Văn C, Nguyễn Quang H, gửi đến giám định có khối lượng  2,4252 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

2. Mẫu chất bột mịn màu trắng chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín (mẫu A2), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự: 02), có hình dấu của Công an phường R – CA TP V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Đại úy Đoàn Trung T, Phạm Văn C, Ngô Ngọc Q, Đỗ Hồng N, gửi đến giám định có khối lượng 0,2306 gam, là chất ma túy, loại Ketamine.”

Đối với chiếc xe mô tô biển số 72L4-8090, C mượn của anh Bùi Văn C, anh Chính không biết C mượn sử dụng vào việc tàng trữ ma túy. Cơ quan CSĐT Công an TP. V đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe trên cho anh Chính.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho C do không rõ lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra.

Bản cáo trạng số 33/CT-VKSTPVT ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Phạm Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận tòa bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng tữ trái phép chất ma túy”, căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 20 đến 30 tháng tù; Về vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy chất ma túy thu giữ trong vụ án; tịch thu nộp ngân sách 01 điện thoại hiệu Sam Sung và giao trả cho bị cáo 01 điện thoại Oppo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Vào khoảng 19 giờ 20 phút  ngày 14/10/2018, tại khu vực ngã tư đường Lê Quý Đôn - Trần Hưng Đạo, Phường 1, TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Phạm Văn C bị bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 2,4252 gam, loại Methamphetamine. Ngoài ra C đã tự khai và giao nộp 01 gói ma túy có khối lượng 0,2306 gam, loại Ketamine mà C đã cất giấu tại nơi ở của mình. C khai mục đích tàng trữ các chất ma túy nói trên để sử dụng. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là đúng người, đúng pháp luật. 

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến các qui định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà việc sử dụng ma túy còn có thể làm giảm sức khỏe của bản thân người sử dụng; gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương và là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật khác. C biết việc tàng trữ và sử dụng ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện, cho thấy xem thường pháp luật nên phải xử phạt nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ngoài ra bị cáo tự khai báo và giao nộp chất ma túy Ketamine, đây được xem là tình tiết tự thú của bị cáo và nên căn cứ điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng:

- Chất ma túy thu giữ của bị cáo trong vụ án là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 chiếc điện thoại hiệu Sam Sung C khai sử dụng vào việc mua bán ma túy nên tịch thu nộp ngân sách;

- 01 Oppo không liên quan đến tội phạm nên giao trả cho bị cáo;

- 01 chiếc xe mô tô biển số 72L4-8090 Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Bùi Văn Chính và ra quyết định xử lý giao trả cho anh Chính là đúng quy định.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Phạm Văn C 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt 14/10/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói chất ma túy được niêm phong số 197/1 và 197/2/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 23/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Tịch thu nộp ngân sách 01 chiếc điện thoại hiệu Sam Sung.

- Giao trả cho bị cáo Phạm Văn C 01 Oppo.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố V đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 83/BB.THA ngày 30/01/2019).

3. Án phí: Bị cáo Phạm Văn C phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về