Bản án 91/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 91/2017/HSST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:75/2017/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn V, sinh năm 1991; Nơi thường trú: ấp Đ, xã A, huyện C, tỉnh sóc Trăng; Nơi tạm trú: Số 7/60C đường H, Khóm 2, Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn C và bà Trần Thị T; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam ngày 20/6/2017; (có mặt)

2. Lý Huỳnh Quế T (có tên gọi khác là G), sinh năm 1995; Nơi cư trú: Số 7/60C đường H, Khóm 2, Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Hồng P và bà Huỳnh Quế A (chết); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 20/6/2017. (có mặt)

NHẬN THẤY

Các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào ngày 14 giờ 30 phút ngày 20-6-2017, Công an thành phố Sóc Trăng phối hợp với Phòng Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Ma túy – Công an tỉnh Sóc Trăng phát hiện bắt quả tang Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T đang có hành vi tàng  trữ  trái  phép  chất  ma  túy tại  khu  vực  bãi  đậu  xe trước  cửa  Siêu  thị Coopmart đường H, Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Qua kiểm tra đã phát hiện trong túi quần bên trái phía trước của Trần Văn V có để 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Saigon Sliver bên trong đựng 01 bịch nylon có chứa tinh thể rắn màu trắng, nghi vấn là ma túy nên lập biên bản thu giữ và cùng một số vật chứng khác.

Tại Kết luận Giám định số 33/GĐMT-PC54 ngày 23-6-2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy có trọng lượng 2,447gam, là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 67, Nghị định Số 82 ngày 19-7-2013 của Chính Phủ.

Quá trình điều tra Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T khai nhận: V và T đều là người nghiện ma túy, cả hai có mối quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà của Trân ở số 7/60C đường H, Khóm 2, Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Trước ngày bị bắt thì V và T cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng tại nhà được khoảng 06 đến 07 lần, mỗi lần mua từ 200.000đ đến300.000đ. Đến khoảng hơn 11 giờ ngày 20-6-2017, thì V và T bàn bạc với nhau là mua ma túy nhiều hơn để sử dụng dần thì cả hai đều đồng ý, nên T dùng điện thoại di động của mình để điện thoại cho một người đàn ông, không rõ họ tên và địa  chỉ  mà  T  và  V  đã  mua  ma  túy  trước  đó  để  hỏi  mua  ma  túy  với  giá2.500.000đ và hẹn địa điểm giao ma túy là tại nhà của T. Khoảng 01 giờ sau thì có 01 người đàn ông đến nhà giao ma túy, V là người ra nhận ma túy rồi trả trước cho người bán là 1.500.000đ và nợ lại 1.000.000đ. Sau khi có ma túy thì T và V lấy ra một ít để sử dụng tại nhà, sau đó khi cả hai mang theo ma túy đến Siêu thị Coopmart S để mua đồ dùng thì bị bắt.

Tại Cáo trạng số 77/QĐ-KSĐT ngày 29-9-2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Văn V và LýHuỳnh Quế T (G) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội 14; Khoản 3 Điều 7; điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 của Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với các bị cáo. Đề nghị xử phạt các bị cáo V và T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và Khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong 3/P54 ngày 21-6-2017; 01 võ thuốc lá hiệu Sài Gòn; 01 bình nhựa có nắp màu đỏ được khoét 02 lỗ, gắn 01 đoạn ống hút, ống hút là dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại không đo kích thước đã qua sử dụng; 01 nắp nhựa màu đỏ, được khoét hai lỗ đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút màu trắng không đo kích thước; 01 lưỡi làm máu trắng đã qua sử dụng;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động màu trắng đen, phía sau lưng có chữ appo chưa kiểm tra tình trạng bên trong, số sim 01662759907;

Giao 01 xe mô tô Wave alpha chưa đăng ký biển số sử dụng được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo Phiếu nhập kho số NK00103 ngày 22-9-2017 cho cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an thành phố Sóc Trăng quản lý để xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà, các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng tội. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và lời khai các bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) đã khai nhận:

Các bị cáo đều là người nghiện ma túy và bắt đầu sử dụng chất ma túy vào khoảng đầu năm 2017 cho đến ngày bị bắt, loại ma túy các bị cáo sử dụng là Methamphetamine, nguồn ma túy có để sử dụng là do các bị cáo mua của ngườiđàn ông trên địa bàn thành phố S, nhưng không rõ họ tên và nơi cư trú cụ thể được khoảng 06 đến 07 lần, mỗi lần mua ma túy là từ 200.000đ đến 300.000đ rồi đem về nhà của bị cáo T tại số 7/60C đường H, Khóm 2, Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng để cất giấu và sử dụng. Riêng vào khoảng 11 giờ ngày20/6/2017, các bị cáo bàn bạc cùng mua ma túy nhiều hơn để sử dụng, bị cáo T mới điện thoại cho người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo trước đó để hỏi mua ma túy với giá là 2.500.000đ, địa điểm giao ma túy là tại nhà của bị cáo T. Khoảng 01 giờ sau, người đàn ông đến giao ma túy thì bị cáo V nhận ma túy và trả trước cho người đàn ông bán ma túy 1.500.000đ còn nợ lại 1.000.000đ, các bị cáo mới lấy ra một ít để sử dụng tại nhà rồi bỏ số ma túy còn lại vào gói thuốc lá và đi đến Siêu thị Coopmart S để mua đồ dùng thì bị bắt quả tang cùng với vật chứng.

Đối với các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) đã cùng thống nhất mua 01 bịch ma túy với giá 2.500.000đ rồi đem về cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Qua giám định ma túy thu giữ của các bị cáo là Methamphetamine có trọng lượng 2,447gam. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Ngoài ra, đối với các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng theo quy định tại điểm c Khoản 1Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm h, i Khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội 14; Khoản 3 Điều7; điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có lợi cho các bịcáo.

Các bị cáo đã cùng thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ. Nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Vai trò của từng bị cáo như sau:

Đối với bị cáo Lý Huỳnh Quế T (G) là người thực hành tích cực. Chính bị cáo là người trực tiếp điện thoại cho người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo trước đó để hỏi mua ma túy với giá là 2.500.000đ và hẹn địa điểm giao ma túy. Nên cần xử phạt bị cáo nghiêm thì mới tương xứng.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiềnán, tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bịcáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Trần Văn V là đồng phạm với vai trò là người thực hành tích cực. Chính bị cáo là người trực tiếp nhận ma túy và trả tiền cho người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo. Nên cần xử phạt bị cáo nghiêm thì mới tương xứng.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; ông ngoại của bị cáo là ông Trần Văn H là người hoạt động Cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Đối với người đàn ông ở thành phố Sóc Trăng là người bán ma tuý cho các bị cáo, nhưng không rõ họ tên và nơi cư trú cụ thể. Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

Về  vật  chứng  của  vụ  án  thu  được:  01  gói  niêm  phong  3/P54  ngày21/6/2017; 01 võ thuốc lá hiệu Sài Gòn; 01 bình nhựa có nắp màu đỏ được khoét02 lỗ, gắn 01 đoạn ống hút, ống hút là dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại không đo kích thước đã qua sử dụng; 01 nắp nhựa màu đỏ, được khoét hai lỗ đã qua sử dụng; 01 đoạn ống hút màu trắng không đo kích thước; 01 lưỡi làm máu trắng đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động màu trắng đen, phía sau lưng có chữ appo chưa kiểm tra tình trạng bên trong, số sim 01662759907 và 01 xe mô tô Wave alpha chưa đăng ký biển số sử dụng.

Xét thấy, cần xử lý vật chứng của vụ án như sau:

- Đối với vật chứng là vật cấm lưu hành, vật dùng để cất giấu ma túy, sử dụng ma túy và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động màu trắng đen số sim 01662759907 là của bị cáo Trân dùng làm phương tiện để liên lạc mua ma túy, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô Wave Alpha chưa đăng ký biển số sử dụng. Không phải vật chứng của vụ án nên cần giao cơ quan Điều tra – Công an thành phố Sóc Trăng tiếp tục quản lý để xử lý theo quy định pháp luật.

Về án phí, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định phápluật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt các bị cáo ở mức trung bình như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

Tuyên  bố

QUYẾT ĐỊNH

Các bị cáo Trần Văn V và Lý Huỳnh Quế T (G) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 194; điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm h, i Khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội 14; Khoản 3 Điều 7; điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Trần Văn V.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 194; điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm h, i Khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội 14; Khoản 3 Điều 7; điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lý Huỳnh Quế T (G).

1. Xử phạt bị cáo Trần Văn V 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20-6-2017.

2. Xử phạt bị cáo Lý Huỳnh Quế T (G) 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20-6-2017.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và điểm a, đKhoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong 3/P54 ngày 21-6-2017; 01 (một) võ thuốc lá hiệu Sài Gòn; 01 (một) bình nhựa có nắp màu đỏ được khoét02 lỗ, gắn 01 đoạn ống hút, ống hút là dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 (một) cây kéo bằng kim loại không đo kích thước đã qua sử dụng; 01 (một) nắp nhựa màu đỏ, được khoét hai lỗ đã qua sử dụng; 01 (một) đoạn ống hút màu trắng không đo kích thước; 01 (một) lưỡi làm máu trắng đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động màu trắng đen, phía  sau  lưng  có  chữ  appo  chưa  kiểm  tra  tình  trạng  bên  trong,  số  sim01662759907.

Giao 01 (một) xe mô tô Wave Alpha chưa đăng ký biển số sử dụng được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo Phiếu nhập kho số NK00103 ngày 22-9-2017 cho cơ quan Điều tra – Công an thành phố Sóc Trăng tiếp tục quản lý để xử lý theo quy định pháp luật.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội;

Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về