Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 829/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:Bà Trần Thị Dạ T, sinh năm: 1972;

Cư trú tại: Khu phố A tổ T, phường J, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.(Có mặt)

2. Bị đơn:Ông Lê Xuân B, sinh năm: 1965;

Cư trú tại: Khu phố A tổ T, phường J, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiệnngày 05/12/2018và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Dạ Ttrình bày thì: Bà T và ông Lê Xuân B kết hôn vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường J, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại Khu phố A tổ T, phường J, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2014 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về tính cách cũng như quan điểm sống, không có sự tin tưởng lẫn nhau, bất kể chuyện gì vợ chồng cũng xảy ra cãi vã, không tìm được tiếng nói chung. Mặt khác, ông B còn hay đánh đập bà T nhiều lần gây ức chế tinh thần cho bà T. Hiện vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng bà T có 03 con chung là Lê Xuân H, sinh ngày 25/01/1994; Lê Xuân H, sinh ngày 13/4/1996 (đều đã thành niên) và Lê Xuân H, sinh ngày 20/10/2004. Ly hôn, cháu H nguyện vọng mong muốn ở với ai thì người đó nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà T xác định không có.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơnông Lê Xuân B không đến Toà và cũng không cung cấp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T nên Toà án không thu thập được ý kiến cũng như lời khai của ông Bvà không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, bà T xác địnhmâu thuẫn vợ chồng nguyên nhân chính là do bà T làm ăn thua lỗ nhưng ông B không chia xẻ khó khăn mà còn thường xuyên chửi bới, xúc phạm và đánh đập bà nhưng không gây thương tích, bà cũng đã cố gắng chịu đựng vì các con nhưng ông B vẫn không thay đổi nên bà đã ra ngoài sống riêng từ tháng 6/2018 cho đến nay. Bà và ông B không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, tình cảm của bà đối với ông B không cònnênbà vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông B. Vợ chồng có 03 con chung như nêu trên. Cháu H và cháu H đều đã thành niên, riêng cháu H thì bà T đồng ý giao cho ông B nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu H, bà T sẽ tự thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con. Bà T không yêu cầu giải quyết chia tài sản chung và xác định không có nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên toà:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án cũng như giải quyết vụ án, thì chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xửđã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bịđơn đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bịđơn là đảm bảo theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông Bcó xảy ra và đã trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ khi Toà thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được Toà án thông báo nhiều lần nhưngông Bkhông đến Toà để hoà giải, hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng là thể hiện việc ông B không quan tâm và không có nguyện vọng hàn gắngia đình nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T, cho bà T và ông B ly hôn. Hai cháu Lê Xuân H và Lê Xuân H đều đã trưởng thành nên không đề cập xem xét. Cháu Lê Xuân H có nguyện vọng được ở với ông Lê Xuân B nên tôn trọng nguyện vọng của cháu, đề nghị giao cháu Lê Xuân H cho ông B trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và xác định vợ chồng không có nợ chungnên không đề cập xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Toà ánđã niêm yết tống đạt hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn ông Lê Xuân Bđể tham gia phiên toà sơ thẩm, tuy nhiên ông B vẫn vắng mặtkhông vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà Trần Thị Dạ T và ông Lê Xuân B chung sống với nhau từ năm 1993 đến năm 2004, có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyệnvà được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2014thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà T là do vợ chồng bất đồng về tính cách cũng như quan điểm sống, không có sự tin tưởng lẫn nhau, bà T làm ăn bị thua lỗ nhưng ông B không chia xẻ mà thường xuyên chửi bới, xúc phạm bà T. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2018 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì đến nhau nữa. Bà Txác địnhvợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm của bà đối với ông B không cònnên yêu cầu ly hôn. Mặc dù qua xác minh, chính quyền địa phương không biết về mâu thuẫn của vợ chồng bà T, ông B, tuy nhiên qua lời trình bày của conxác định bà T và ông B thường xuyên cải nhau về vấn đề tiền bạc. Bản thân bà T cũng đã ra ngoài sống riêng và vợ chồng đã sống ly thân thời gian dài nhưng cả hai đều không có biện pháp nào để hàn gắn gia đình. Toà án cũng đã nhiều lầnthông báocho ông B biết và đến Toà để hoà giải, tuy nhiên ông Bvẫn không đến và tại phiên toà hôm nay ông B cũng vắng mặt không có lý dolà thể hiệnviệc ông B bỏ mặc, không mong muốn vợ chồng hàn gắn. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông B là có xảy ra, kéo dài và đã trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy yêu cầu ly hôn của bà T và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên căn cứvào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T, cho bà T và ông B ly hôn.

[2.2] Về con chung:Bà T và ông Bcó 03 con chung là Lê Xuân H, sinh ngày 25/01/1994; Lê Xuân H, sinh ngày 13/4/1996 (đều đã thành niên) và Lê Xuân H, sinh ngày 20/10/2004. Xét thấy, cháu H hiện đang sống chung với ông B tại nhà, cuộc sống của cháu đang ổn định và bản thân cháu H cũng nguyện vọng được ở với ông B, bà T cũng đồng ý giao cháu H cho ông B nuôi dưỡng nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giao cháu H cho ông B nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu H cho ông B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi cháu H đủ tuổi thành niên.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Do ông B vắng mặt và không có yêu cầu gì về cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập. Nếu sau này ông B và bà T có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con sẽ khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Vềtài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Toà án chia tài sản chung và xác định không có nợ chung nên không đề cập.

[4]Về án phí: Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩmvề ly hôn theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147 vàđiểm b khoản 2Điều 227của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụngĐiều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

-Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Dạ T và ông Lê Xuân Bly hôn.

2.Về nuôi con chung: 02 con chung là Lê Xuân H, sinh ngày 25/01/1994 và Lê Xuân H, sinh ngày 13/4/1996 đều đã thành niên.

Giao con chung là cháu Lê Xuân H, sinh ngày 20/10/2004cho ông Lê Xuân B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Hđủ tuổi thành niên.

Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con, không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3.Về án phí:Bà Trần Thị Dạ T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0011717 ngày 20 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

4.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáolà 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về