Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 20/8/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình thụ lý số 39/2019/TLST-HNGĐ ngày 04/4/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42 2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/8/2019 giữa:

Nguyên đơn: Anh Hoàng Phan C, sinh năm 1989

HKTT: thôn Lạc Nhuế, xã Thuỵ Hoà, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ( có mặt tại phiên tòa ).

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991

HKTT; thôn Lạc Nhuế, xã Thuỵ Hoà, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại phiên tòa ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Hoàng Phan C trình bày: Anh kết hôn cùng chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991 vào ngày 31/12/2010, trước khi kết hôn đôi bên có được tìm hiểu thỏa thuận tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND xã Thuỵ Hoà, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, sau khi kết hôn chị H về làm dâu chung sống cùng gia đình anh luôn. Vợ chồng sống hoà thuận đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị H nghi ngờ anh có quan hệ với người phụ nữ làm cùng công ty, sau vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn, nay anh C thấy tình cảm vợ chồng không còn không thể chung sống được với nhau nên xin được ly hôn chị H.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Hoàng Thị Kiều Tr, sinh ngày 26/8/2011; cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 26/02/2013 và cháu Hoàng Phan D, sinh ngày 18/11/2014, hiện tại các cháu vẫn đang ở cùng chị H, nay ly hôn anh C đề nghị để chị H tiếp tục nuôi cả 3 cháu anh xin cấp dưỡng nuôi con cho mỗi cháu 1.000.000đ/1 tháng.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ, công sức: không yêu cầu Toà án giải quyết.

Chị H trình bày: Chị xác nhận lời trình bày của anh C về điều kiện thời gian kết hôn cũng như thời điểm xảy ra mâu thuẫn là đúng. Xong chị cho rằng trong quá trình chung sống của vợ chồng không sao tránh khỏi những va chạm mâu thuẫn, theo như anh C trình bày về mâu thuẫn vợ chồng chị thấy vợ chồng vẫn có thể cải thiện được bởi lẽ những mâu thuẫn đó chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt và hiểu lầm của 2 vợ chồng, do vậy chị không đồng ý ly hôn mà để vợ chồng về đoàn tụ nuôi dạy con cái.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung như anh C trình bày là đúng nay nếu phải ly hôn chị xin được nuôi cả 3 cháu và yêu cầu anh C phải góp phí tổn nuôi là 1.000.000đ/1 tháng /cháu.

Về tài sản, công nợ, công sức: chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Chứng cứ mà nguyên đơn đưa ra để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình gồm: Đơn xin ly hôn, Bản sao sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận kết hôn bản chính; Bản sao giấy khai sinh của các con; bản sao CMTND..

Tại phiên toà hôm nay nguyên đơn là anh Hoàng Phan C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là xin được ly hôn chị Nguyễn Thị H và trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là chị H có những cư xử không đúng đắn với gia đình anh đỉnh điểm nhất vào tháng 5/2019, ngoài ra vợ chồng không có mâu thuẫn gì khác, nay anh C xét thấy tình cảm vợ chồng không thể đoàn tụ được anh xin được ly hôn chị H, vợ chồng sống ly thân nhau và cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ cuối năm 2018 đến nay xong chị H vẫn ở chung cùng gia đình anh Cũng tại phiên toà chị H trình bày: về thời gian điều kiện kết hôn và con chung như anh C vừa trình bày tại Toà là đúng, còn về mâu thuẫn vợ chồng chị thừa nhận trong quan hệ gia đình giữa nàng dâu và mẹ, em chồng không sao tránh khỏi va trạm, song chị xét thấy chưa đến mức vợ chồng phải ly hôn nên chị không đồng ý ly hôn, hiện tại chị vẫn đang ở cùng gia đình anh C, vợ chồng cắt đứt quan hệ vợ chồng từ tháng 7 năm 2019 đến nay, sau buổi hoà giải tại Toà án. Nếu phải ly hôn chị xin được nuôi dưỡng cả 3 con chung và yêu cầu anh C phải góp phí tổn nuôi con cho chị mỗi cháu là 2.000.000đ/thang/cháu. Còn về tài sản, công nợ, công sức chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án. Toà án đã đi xác minh tại địa phương do ông Hoàng Phan Thường là bố đẻ anh C cung cấp thì mâu thuẫn vợ chồng anh C chị H là có xong chỉ là mâu thuẫn nhỏ như chị H cho rằng anh C có quan hệ với người phụ nữ khác, xong hiện nay anh C chị H vẫn ở chung cùng gia đình ông, nay ông Thường đề nghị Toà án hoà giải để vợ chồng về đoàn tụ để dạy con cái chứ ông không đồng ý anh C xin ly hôn chị H.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật: Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn là đầy đủ.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình. Đề nghị HĐXX: Xử: Bác đơn xin ly hôn của anh Hoàng Phan C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

Anh Hoàng Phan C kết hôn với chị Nguyễn Thị H vào năm 2010, trước khi kết hôn đôi bên có được tìm hiểu thỏa thuận tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Thuỵ Hoà, huyện Yên Phong được coi là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân lý do là vợ chồng hiểu lầm nhau trong cách cư xử trong cuộc sống hàng ngày, cũng như chị H nghi ngờ anh C có quan hệ với người phụ nữ khác, dẫn đến anh C có đơn xin ly hôn chị H. Hiện nay chị H vẫn đang sinh sống cùng gia đình anh C. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng anh C chị H chưa đến mức trầm trọng vợ chồng phải ly hôn, vợ chồng vẫn có thể đoàn tụ được . Nên cần xử bác đơn xin ly hôn của anh Hoàng Phan C về việc xin ly hôn chị Nguyễn Thị H để vợ chồng về đoàn tụ là phù hợp.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Hoàng Thị Kiều Tr, sinh ngày 26/8/2011, cháu Hoàng Thị Ngọc L, sinh ngày 26/02/2013 và cháu Hoàng Phan D, sinh ngày 18/11/2014 hiện nay cả 3 cháu vẫn đang ở cùng chị H.

Về tài sản: anh C chị H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về công sức, công nợ: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 143, 144, 145, 146, 147, 227, 235, 266 và 267 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51, 56. Luật hôn nhân gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân:

X: Bác đơn xin ly hôn của anh Hoàng Phan C. Về con chung: không đặt ra giải quyết Về tài sản: không đặt ra giải quyết. Về công nợ, công sức: không có Về án phí: Anh Hoàng Phan C phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số AA/2018/0000592 ngày 01/4 /2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Anh C đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình  

Số hiệu:20/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về