Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 37/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 01 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 304/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đàm Thị G; nơi ĐKHKTT: Đường L, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Xóm Đ, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Hải A; nơi cư trú: Đường L, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/01/2019, bản tự khai nguyên đơn chị Đàm Thị G trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Hải A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình và có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam vào năm 1997, có đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 3 năm 1998 tại Ủy ban nhân dân xã Lâm Động, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, anh Hải A không tôn trọng chị và gia đình từ đó dẫn đến không có sự hòa hợp về tình cảm và quan điểm, lối sống. Trầm trọng nhất từ tháng 8 năm 2017 cho đến nay, chị và anh Hải A đã sống ly thân, không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Anh Hải A gặp bạn bè thân bêu xấu chị bỏ bê gia đình, nhưng chị vẫn làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ, hàng ngày chị vẫn phải mua bán mọi thứ trong gia đình cho anh Hải A và con. Nhưng anh Hải A thường xuyên làm nhiều việc khác gây mất thể diện cho chị, đến mức chị không thể nhìn ai được nữa. Do cuộc sống chung không có hạnh phúc nên tháng 9 năm 2018 chị đã làm đơn xin ly hôn với anh Hải A tại Tòa án, Tòa án đã hòa giải sau đó chị đã rút đơn, nhưng vợ chồng vẫn không thể cải thiện được tình cảm, anh Hải A vẫn gây cho chị nhiều ức chế. Chính vì vậy, một lần nữa chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Hải A để ổn định cuộc sống.

Về việc nuôi con: Chị xác nhận giữa chị và anh Trần Hải A có hai con chung Trần Hà M, sinh ngày 13/7/1998 và Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004. Hiện con Trần Hà M đã trên 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị G đồng ý giao con Trần Đàm Quốc K cho anh Hải A nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về việc chia tài sản: Chị Đàm Thị G không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trần Hải A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh Trần Hải A không đến và đều xin hoãn nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và không lấy được lời khai của anh Trần Hải A.

Tòa án đã thu thập chứng cứ đối với gia đình, chính quyền địa phương về quan hệ hôn nhân giữa chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A, thể hiện: Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A có mâu thuẫn từ năm 2017 cho đến nay. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, lối sống. Từ năm 2017 cho đến nay hai người đã sống ly thân, không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A có hai con chung Trần Hà M, sinh ngày 13/7/1998 và Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004; về tài sản chung của vợ chồng không nắm được, nên không có ý kiến.

Anh Trần Hải A đã được Tòa án tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn anh Trần Hải A không chấp hành quy định của pháp luật về việc có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như không có quan điểm giải quyết vụ án, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và phiên tòa lần thứ hai không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nên đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh Trần Hải A theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên có quan điểm: Mâu thuẫn của chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 và các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đàm Thị G, chị Đàm Thị G được ly hôn anh Trần Hải A; về việc nuôi con chung: Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A có hai con chung là Trần Hà M, sinh ngày 13/7/1998 và Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004. Hiện con Trần Hà M đã trên 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Giao con Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004 cho anh Trần Hải A trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết; về việc chia tài sản: Chị Đàm Thị G không yêu cầu Tòa án giải quyết; về án phí: Chị Đàm Thị G phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

[1] Đây là quan hệ pháp luật về ly hôn, tranh chấp về nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn anh Trần Hải A cư trú tại địa bàn quận Ngô Quyền nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về thời hạn giải quyết vụ án:

[2] Ngày 23 tháng 01 năm 2019, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thụ lý vụ án; đến ngày 26 tháng 4 năm 2019, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của bị đơn:

[3] Bị đơn anh Trần Hải A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Trần Hải A vắng mặt không có lý do, nên Tòa án không tiến hành ghi lời khai và tiến hành hòa giải được cũng như không có văn bản thể hiện quan điểm giải quyết vụ án. Ngày 20 tháng 5 năm 2019, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2019/QĐXXST-HNGĐ và đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Trần Hải A. Nhưng tại phiên tòa ngày 20 tháng 5 năm 2018 anh Trần Hải A vắng mặt lần thứ nhất. Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên tòa số 304/2019/QĐST-HNGĐ và ấn định phiên tòa được mở lại vào hồi 08 giờ ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại phiên tòa bị đơn tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chứng tỏ bà anh Trần Hải A không chấp hành pháp luật, nên Hội đồng xét xử xử vắng mặt bị đơn anh Trần Hải A theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[4] Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A lấy nhau năm 1997 trên cơ sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam, có đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 3 năm 1998 tại Ủy ban nhân dân xã Lâm Động, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Quá trình chung sống chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm, lối sống. Chính vì vậy, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, và cũng từ đó đến nay chị G đã về ở cùng bố mẹ đẻ ở tại xóm Đền, xã Lâm Động, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, còn anh Hải A cùng con ở tại số 62/52 đường Lê Lai, phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, hai người đã sống ly thân không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Tháng 9 năm 2018 chị G đã có đơn xin ly hôn, Tòa án hòa giải chị G đã rút đơn, nhưng đến nay vợ chồng vẫn không thể cải thiện được tình cảm. Nay chị G xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Trần Hải A. Xét mâu thuẫn giữa chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đàm Thị G.

+ Về việc nuôi con:

[6] Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A có hai con chung Trần Hà M, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1998 và Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07 tháng 7 năm 2004. Hiện con Trần Hà M đã trên 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Hội đồng xét xử xét: Hiện nay con Trần Đàm Quốc K vẫn ở với anh Hải A chăm sóc và nuôi dưỡng, hơn nữa cháu có nguyện vọng được ở với anh Hải A để đảm bảo sự ổn định về mặt tâm lý, sự phát triển về mọi mặt cho con, nên giao con Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004 cho anh Hải A trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ Về việc chia tài sản:

[7] Chị Đàm Thị G không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[8] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Đàm Thị G phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[9] Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Đàm Thị G.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đàm Thị G được ly hôn anh Trần Hải A.

2. Về việc nuôi con: Chị Đàm Thị G và anh Trần Hải A có hai con chung là Trần Hà M, sinh ngày 13/7/1998 và Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004. Hiện con Trần Hà M đã trên 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Giao con Trần Đàm Quốc K, sinh ngày 07/7/2004 cho anh Trần Hải A trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Đàm Thị G không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Chị Đàm Thị G, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đàm Thị G phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015605 ngày 23 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Đàm Thị G đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Đàm Thị G được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Trần Hải A vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về