Bản án 20/2019/DS-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 20/2019/DS-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 35/2019/TLST-DS ngày 11 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2019/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 9 năm 2019; theo quyết định hoãn phiên tòa số 18/2019/QĐST-DS ngày 07 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1971

Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

Bị đơn: Anh Nguyễn Khắc Q, sinh năm 1983 và chị Phạm Thị P, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên

(Có mặt chị P, vắng mặt anh Q có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/6/2019, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự trình bày như sau:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: Vào năm 2013, chị H có mở cửa hàng kinh doanh bán cám chăn nuôi gia súc, gia cầm (thức ăn chăn nuôi). Vợ chồng anh Q và chị P có đến cửa hàng của chị đặt vấn đề mua thức ăn chăn nuôi, hai bên chỉ thỏa thuận miệng không lập biên bản hay giấy tờ gì, khi mua xong anh Q và chị P trả tiền ngay không nợ gì. Từ năm 2015, anh Q và chị P vẫn tiếp tục mua thức ăn chăn nuôi của chị, nhưng do khó khăn nên đề nghị cho trả dần, trả chậm. Anh Q có hẹn chị sau 04 đến 05 tháng được thu hoạch gà, lợn anh sẽ trả hết tiền nợ nên tôi đã đồng ý. Mỗi lần anh Q, chị P mua thức ăn chăn nuôi đều có ghi và chốt vào sổ theo dõi là còn nợ lại bao nhiêu tiền, vì anh Q và chị P không trả chị tiền nợ như đã hẹn nên đến cuối năm 2016 thì chị không bán thức ăn chăn nuôi cho anh Q và chị P nữa.

Đến năm 2018, chị H và anh Q, chị P đã cùng nhau chốt sổ nợ và thống nhất công nợ là: 104.310.000đồng, đến ngày 12/10/2018 thì anh Q và chị P trả được 15.000.000đồng. Còn nợ 89.310.000đồng, anh Q có hẹn chị đến tháng 4/2019 sẽ trả hết, nhưng không trả, chị đã đòi nhiều lần nhưng anh Q và chị P cứ khất mãi không trả. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng anh Q và chị P phải trả 89.310.000đồng, chị không yêu cầu anh Q, chị P phải trả lãi suất khoản tiền nợ nêu trên.

Bị đơn anh Nguyễn Khắc Q trình bày: Vào khoảng năm 2013, chị H có đến tận gia đình anh giới thiệu về loại cám Hope chăn cả lợn và gà, khi đó gia đình đang chăn gà, lợn nên anh đã đồng ý mua cám của cửa hàng chị H. Việc thỏa thuận mua bán cám giữa hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không lập biên bản hay giấy tờ gì. Tuy nhiên, sau mỗi lần lấy cám có chốt số tiền vào sổ của chị H và sổ theo dõi số tiền của gia đình. Thời gian đầu mua cám vợ chồng anh đều thanh toán tiền cho chị H. Từ năm 2015 cho đến nay do trong chăn nuôi thua lỗ, đàn gia súc, gia cầm dịch bệnh nên vợ chồng anh phải trả chậm trả dần cho chị H. Đến năm 2018 chốt sổ nợ, vợ chồng anh còn nợ chị H số tiền là: 104.310.000đồng, đến ngày 12/10/2018 trả tiếp 15.000.000đồng và hẹn chị H sau khi xuất bán gia súc, gia cầm sẽ trả ít nhiều cho chị H, do thua lỗ trong chăn nuôi nên chưa trả được. Vợ chồng anh xin khất chị H đến tháng 8/2019 sẽ trả tiếp nhưng chị H không nhất trí. Nay anh xác định, vợ chồng còn nợ chị H số tiền 89.310.000đồng. Chị H yêu cầu vợ chồng anh trả hết số tiền này trong một lần thì không có khả năng. Vì, hiện nay vợ chồng anh rất khó khăn do chăn nuôi thua lỗ và xin trả dần mỗi năm 15.000.000đồng cho đến khi hết số nợ trên.

Bị đơn chị Phạm Thị P: Nhất trí với ý kiến của chồng là anh Nguyễn Khắc Q, không bổ sung gì thêm.

Tại phiên tòa, chị H trình bày yêu cầu anh Q, chị P phải trả số tiền 89.310.000đồng vào năm 2020 và 2021,cụ thể:

Năm 2020 phải trả 50.000.000đồng, cho trả làm 02 lần: Ngày 20/5/2020 trả 25.000.000 đồng; ngày 20/10/2020 trả 25.000.000 đồng;

Năm 2021 phải trả 39.310.000đồng, cho trả làm 02 lần: Ngày 20/5/2021 trả 20.000.000 đồng; ngày 20/10/2021 trả 19.310.000 đồng.

Tôi không yêu cầu anh Q, chị P phải trả lãi suất cho tôi số tiền nợ 89.310.000đồng.

Tại phiên tòa, chị P trình bày: vợ chồng chị còn nợ tiền mua cám thức ăn chăn nuôi của chị H là 89.310.000 đồng, chị đồng ý trả dần cho chị H mỗi năm 15.000.000đồng cho đến khi hết số nợ nêu trên.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS:

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 228, 235, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 688, Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 428 và Điều 438 Bộ luật Dân sự 2005; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P.

Buộc vợ chồng anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P phải có trách nhiệm liên đới thanh toán trả cho chị Nguyễn Thị H số tiền là 89.310.000đ (Tám mươi chín triệu ba trăm mười nghìn đồng), cụ thể:

Năm 2020 phải trả 50.000.000đồng, cho trả làm 02 lần: Ngày 20/5/2020 trả 25.000.000 đồng; ngày 20/10/2020 trả 25.000.000 đồng;

Năm 2021 phải trả 39.310.000đồng, cho trả làm 02 lần: Ngày 20/5/2021 trả 20.000.000 đồng; ngày 20/10/2021 trả 19.310.000 đồng.

Anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P không phải trả lãi do chị Nguyễn Thị H không yêu cầu.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng anh Q, chị P phải chịu 4.465.500đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước. Chị H được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

Quá trình giải quyết Toà án đã tiến hành hoà giải nhiều lần xong các bên vẫn giữ nguyên quan điểm không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên phải đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P có địa chỉ: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Các đương sự tranh chấp với nhau về việc mua bán thức ăn chăn nuôi, nên quan hệ pháp luật được xác định là: “Tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản”, theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/01/2017 nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 áp dụng các quy định về hợp đồng mua bán tài sản, theo quy định tại Điều 428 và Điều 438 Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết trong vụ án này.

[3] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho các đương sự, tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành, các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Bị đơn anh Nguyễn Khắc Q đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt tại phiên tòa có lý do. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt đối với bị đơn anh Nguyễn Khắc Q.

[4] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu, ý kiến của các đương sự cho thấy: giữa chị Nguyễn Thị H với anh Nguyễn Khắc Q, chị Phạm Thị P có giao dịch mua bán thức ăn chăn nuôi, hai bên đã thống nhất xác nhận về số tiền còn nợ là: 89.310.000 đồng. Việc giao dịch bằng miệng giữa các đương sự về mua bán tài sản được xác lập từ năm 2013 và được các bên tôn trọng và thừa nhận là hoàn toàn tự nguyện, có căn cứ, không trái đạo đức xã hội và quy định pháp luật, cụ thể:

Vào năm 2013, chị H và anh Q, chị P có hợp đồng bằng miệng về mua bán thức ăn chăn nuôi. Theo thỏa thuận chị H đã bán cho vợ chồng anh Q, chị P thức ăn chăn nuôi từ năm 2013 đến cuối năm 2016 với hình thức trả chậm, trả dần. Đến năm 2018, chị H và anh Q, chị P đã chốt công nợ là: 104.310.000 đồng; ngày 12/10/2018, anh Q và chị P trả được 15.000.000 đồng cho chị H, còn nợ là: 89.310.000 đồng. Chị H đã thực hiện nghĩa vụ giao thức ăn chăn nuôi cho vợ chồng anh Q, chị P nhưng vợ chồng anh Q, chị P không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho chị H là vi phạm nghĩa vụ của bên mua. Nay, chị H khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Q, chị P phải thanh toán số tiền mua thức ăn chăn nuôi nêu trên là có căn cứ và được chấp nhận toàn bộ yêu cầu.

[5] Về thời hạn trả nợ và phương thức thanh toán:

- Chị H yêu cầu thanh toán nợ cụ thể như sau:

+ Năm 2020, anh Q và chị P phải trả 50.000.000đồng, trả làm 02 lần: Ngày 20/5/2020 phải trả 25.000.000đồng; ngày 20/10/2020 phải trả 25.000.000đồng;

+ Năm 2021, anh Q và chị P phải trả 39.310.000đồng, trả làm 02 lần: Ngày 20/5/2021 phải trả 20.000.000 đồng; ngày 20/10/2021 phải trả 19.310.000 đồng.

- Anh Q, chị P xin được trả dần từng đợt, mỗi năm vợ chồng sẽ trả 15.000.000 đồng cho đến khi trả hết khoản nợ trên.

Do yêu cầu của vợ chồng anh Q không được chị H đồng ý, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H, buộc vợ chồng anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P phải thanh toán trả cho chị Nguyễn Thị H 89.310.000 đồng.

[6] Về lãi suất: chị Nguyễn Thị H không yêu cầu vợ chồng anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P phải trả lãi suất khoản nợ gốc nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Xét thấy việc phát biểu của kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ, căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Khắc Q, chị Phạm Thị P có nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm cụ thể như sau: 89.310.000 đ x 5% = 4.465.500đồng. Hoàn trả lại chị Nguyễn Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 228, 235, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 688, Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 428 và Điều 438 Bộ luật Dân sự 2005; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P.

2. Buộc vợ chồng anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P phải có trách nhiệm liên đới thanh toán trả cho chị Nguyễn Thị H số tiền là 89.310.000đ (Tám mươi chín triệu ba trăm mười nghìn đồng). Anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P không phải trả lãi do chị Nguyễn Thị H không yêu cầu.

3. Thời hạn trả nợ và phương thức thanh toán:

Vợ chồng anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P phải có trách nhiệm thanh toán cho chị Nguyễn Thị H 89.310.000đ (Tám mươi chín triệu ba trăm mười nghìn đồng), cụ thể:

- Năm 2020, anh Q và chị P phải trả 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), trả làm 02 lần:

+ Ngày 20/5/2020 phải trả 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng);

+ Ngày 20/10/2020 phải trả 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng);

- Năm 2021, anh Q và chị P phải trả 39.310.000đ (Ba mươi chín triệu ba trăm mười nghìn đồng), trả làm 02 lần:

+ Ngày 20/5/2021 phải trả 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng);

+ Ngày 20/10/2021 phải trả 19.310.000đ (Mười chín triệu ba trăm mười nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Q và chị P không tự nguyện thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi được xác định theo khoản 2 Điều 468 BLDS.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng anh Nguyễn Khắc Q và chị Phạm Thị P phải chịu 4.465.500đ (Bốn triệu bốn trăm sáu mươi lăm nghìn năm trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước. Chị Nguyễn Thị H được hoàn lại số tiền 2.232.750đ (Hai triệu hai trăm ba mươi hai nghìn bảy trăm năm mươi đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, theo biên lai số 0000823 ngày 10 tháng 6 năm 2019.

5. Thông báo về quyền kháng cáo: Có mặt nguyên đơn (chị H), bị đơn (chị P) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn (anh Q) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản bản án hoặc niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/DS-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:20/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về