Bản án 20/2018/HS-ST ngày 14/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 14/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2018/TLST-HS ngày 17 tháng5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

1/ Đỗ Thanh T; Giới tính: Nam; Sinh ngày 04 tháng 6 năm 1993 tại: Núi Thành, Quảng Nam. HKTT + chỗ ở: Thạch K - Tam X - Núi Th - Quảng Nam. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nông; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Đỗ Th, sinh năm: 1970 và bà Lê Thị H, sinh năm: 1970. Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con đầu trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Phạm Văn C; Giới tính: Nam; Sinh ngày 28 tháng 5 năm 1993 tại Núi Thành, Quảng Nam; HKTT + chỗ ở: Thạch K - Tam X - Núi Th - Quảng Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nông; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Phạm Văn T, sinh năm: 1968 và bà Phạm Thị Ph, sinh năm: 1967. Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình. Vợ: Nguyễn

Thị D, sinh năm 1995.

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty TNHH Xây dựng công trình Hỏa T.

Địa chỉ trụ sở: số 01 đường số 6, khu phố 1, phường Thạnh Mỹ L, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn Kh; Chức vụ: Giám đốc.Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972; Trú tại: xã Quế T, huyện Quế V, tỉnh Bắc N. Chức vụ: Phó giám đốc. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1968, trú tại: thôn Thạch K, xã Tam X, huyệnNúi Th, tỉnh Quảng Nam. Có mặt tại phiên tòa.

+ Ông Đỗ Th, sinh năm: 1970, trú tại: thôn Thạch K, xã Tam X, huyện Núi Th,tỉnh Quảng Nam. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 02/01/2018, khi đang uống cà phê tại thôn Thạch K, xã Tam X, huyện Núi Th, tỉnh Quảng Nam thì Đỗ Thanh T có bàn bạc với Phạm Văn C cùng nhau trộm ống nước của Công ty TNHH Xây dựng công trình Hỏa T đang thi công đường ống dẫn nước của nhà máy nước BOO Phú Ninh tại thôn Bích S, xã Tam

X, huyện Núi Th để về bán lấy tiền. Thế bảo C sử dụng xe mô tô của C còn T về nhà lấy xe cộ của gia đình mình để đi trộm cắp.

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, C điều khiển xe mô tô BKS: 92N1-171.68 (do C đứng tên đăng ký chủ sở hữu) chở T ngồi sau kéo theo một xe cộ của gia đình T đến khu vực hệ thống đườngống trên. Khi thấy một co nối ống nước bằng kim loại phi800, dài 146 cm nằm riêng ngoài đất cách đường chính thôn Bích S khoảng 10m màkhông có ai trông coi, T và C lăn co nối ống nước này xuống đường rồi đưa lên xe cộ chở về nhà của C cất giấu gần chuồng trâu rồi về nhà ngủ. Tiếp đến vào khoảng 23 giờ ngày 04/01/2018, C điều khiển xe mô tô BKS: 92N1-171.68 chở T ngồi sau kéo theo xe cộ nhà C lên vị trí mà cả 02 đã trộm trước đây. T và C đã trộm 02 đoạn ống dẫn nước (bằng kim loại,phi 800, trong đó 01 đoạn ống dài 170cm và 01 đoạn ống dài 70cm) chở về cất giấu ở khu vực trồng chuối trước nhà C. 

Đến ngày 05/01/2018 ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972, là Phó giám đốc côngty TNHH Xây dựng Công trình Hỏa T, đang quản lý thi công công trình phát hiện bị mất một số ống nước nên làm đơn báo cáo Công an xã Tam X. Công an xã Tam X phối hợp với Đội XDPT và PTX về ANTT Công an huyện Núi Th tổ chức xác minh, truy tìm thì phát hiện toàn bộ tài sản bị mất đang ở nhà C nên lập biên bản tạm giữ.

Tại bản kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Núi Thành kết luận:

- 01 co nối ống dẫn nước bằng kim loại, dài 146cm, dạng tròn, đường kính81,3cm, dày 0,8cm đã qua sử dụng là: 5.100.000 đồng;

- 01 ống dẫn nước bằng kim loại dài 170cm, đường kính 81,4cm, dày 0,8cm, đã qua sử dụng là: 5.900.000 đồng;

- 01 ống dẫn nước bằng kim loại dài 70cm, đường kính 81,5cm, dày 0,8cm, đã qua sử dụng là: 2.400.000 đồng.

Vật chứng của vụ án:

- Toàn bộ số tài sản bị mất và 02 xe cộ đã được Cơ quan CSĐT Công an huyệnNúi Thành trả lại cho chủ sở hữu.

- Hiện đang tạm giữ: 01 xe mô tô BKS: 92N1-171.68, nhãn hiệu Yamaha – Sirius, màu sơn: Đỏ - đen.

Vấn đề dân sự: Toàn bộ tài sản bị mất đã được thu hồi, đại diện bị hại không yêucầu bồi thường và có đơn bãi nại.

Tại Bản cáo trạng số 17/QĐ-VKS ngày 14/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam đã truy tố các bị cáo Đỗ Thanh T và Phạm Văn C về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo T, C về tội: “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng; xử phạt bị cáo Phạm Văn C từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng ántreo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.

Đại diện bị hại thừa nhận phía Công ty TNHH xây dựng công trình Hỏa Tcũng có một phần trách nhiệm là khi làm xong công trình Công ty đã cho công nhân nghỉ, lán trại đã tháo dỡ nhưng những đoạn ống nước ( tài sản các bị cáo trộm) công ty vẫn để tại hiện trường không có người trông coi nên các bị cáo nghĩ rằng tài sản đó không sử dụng nữa. Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản và không khiếu nại về dân sự cũng như hình phạt, bị hại đã bãi nại và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho các bị cáo để các bị cáo có cơ hội sửa chữa, làm lại cuộc đời. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Tại phiên toà sơ thẩm các bị cáo Đỗ Thanh T và Phạm Văn C khai nhận: Vào khoảng 19 giờ ngày 02/01/2018, bị cáo Đỗ Thanh T và Phạm Văn C đã cùng nhau bàn bạc, chuẩn bị công cụ như xe mô tô, xe cộ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, bị cáo T và C lên tại công trình đường ống dẫn nước của nhà máy nước BOO Phú Ninh thuộc thôn Bích S, xã Tam X, huyện Núi Th, tỉnh Quảng Nam trộm cắp 01 co nối ống dẫn nước bằng kim loại, phi 800, dài 146cm, dạng tròn, đường kính 81,3cm, viền ống dày 0,8cm của Công ty TNHH xây dựng Công trình Hỏa T có giá trị 5.100.000 đồng.

Khoảng 23 giờ ngày 04/01/2018, các bị cáo T và C tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tại địa điểm trên 01 ống dẫn nước bằng kim loại phi 800, dài 170cm, dạngtròn, đường kính 81,4cm, viền ống dày 0,8cm và 01 ống dẫn nước bằng kim loại dài70cm, đường kính 81,5cm, dày 0,8cm với tổng giá trị là 8.300.000 đồng.

Tổng cộng giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp là 13.400.000 đồng.Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản số 13/2018/KLGTS ngày 01/2/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Núi Thành và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được tranh tụng công khai tại phiên toà, do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Đỗ Thanh T và Phạm Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì thấy: tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm một cách bất hợp pháp đều bị pháp luật nghiêm trị. Tuy các bị cáo cho rằng bản thân trộm những tài sản trên để về tận dụng làm vật dụng trong gia đình, không có mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân nhưng các bị cáo có đủ năng lực hành vi để nhận biết hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của Công ty TNHH Xây dựng và công trình Hỏa Tiễn. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện. Xét cần phải có một mức án nghiêm khắc để giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Xét về vai trò của các bị cáo: trong vụ án này bị cáo T là người khởi xướng, rủ rê bị cáo C cùng thực hiện hành vi phạm tội do vậy bị cáo T phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo C là phù hợp.

Về nhân thân của bị cáo: các bị cáo thực hiện hai lần hành vi trộm cắp nên thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo xuất thân là nhân dân lao động, có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Sau khi phạm tội biết ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại và tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Người bị hại có đơn bãi nại và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Bị cáo C có khoản thời gian phục vụ trong quân đội. Do vậy, Hội đồng xét xử sơ thẩm thống nhất với quan điểm của Kiểm sát viên áp dụng các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ khi quyết định hình phạt cho các bị cáo và xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo. Xét các bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho các bị cáo hưởng án treo và giao về chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục là thỏa đáng.

Các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường

gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng:

- Toàn bộ số tài sản bị mất và 02 xe cộ đã được Cơ quan CSĐT Công an huyệnNúi Thành trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 xe mô tô BKS: 92N1-171.68, nhãn hiệu Yamaha – Sirius, màu sơn: Đỏ - đen do bị cáo Phạm Văn C đứng tên chủ sở hữu. Đây là phương tiện bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với ông Phạm Văn T và ông Đỗ Th đã nhận lại tài sản là hai xe cộ, khi bị cáo Thế và bị cáo C sử dụng hai xe cộ này để đi trộm cắp tài sản, ông T và ông Th không biết nên không đề cập xử lý.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm a khoản 2 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thanh T, Phạm Văn C phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T, 18 ( Mười tám ) tháng tù nhưng cho hưởng ántreo, thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn C, 12 ( Mười hai ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Đỗ Thanh T, Phạm Văn C cho Ủy ban nhân dân xã Tam X, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam là nơi cư trú của các bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại đủ tài sản và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước01 xe mô tô BKS: 92N1-171.68, nhãn hiệu Yamaha – Sirius, màu sơn: Đỏ - đen do bịcáo Phạm Văn C đứng tên chủ sở hữu.

(Chiếc xe này hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Núi Thành theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/5/2018)

Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội; Bị cáo Đỗ Thanh T, Phạm Văn C mỗi bịcáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, những người tham gia tố tụng có mặt có quyền kháng cáo trong hạn15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dânsự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

(Đã giải thích án treo cho các bị cáo)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 14/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về