Bản án 20/2018/HS-ST ngày 07/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUÂN D, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 07/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 16/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2 0 1 8 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo: Phạm Đình N, sinh ngày 20/6/1986 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: T, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề ngH: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam, quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Đình Y và bà Nguyễn Thị M; chưa có vợ con. Tiền sự: Không. Tiền án có 01 tiền án: Án số 117 ngày 04/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (chưa xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/05/2018 đến ngày 05/05/2018 chuyển tạm giam, có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

Bị hại:

1. Anh Vi Văn Đ, sinh năm 1993; ĐKHKTT: Bản P, xã Hi, huyện Quan H, tỉnh Thanh Hóa. Nơi sinh sống: TDP N 3, phường A, quận D, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

2. Anh Lò Khăm H, sinh năm 1998; ĐKHKTT: Bản P, xã H, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa.Nơi sinh sống: TDP N 3, phường A , quận D, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

3. Anh Ma Công H, sinh năm 1983; ĐKHKTT: Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Nơi sinh sống: Tổ 5, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

4. Anh Lê Văn H, sinh năm 1985; ĐKHKTT: Xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Nơi sinh sống: Tổ 5, phường H , quận D, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Bảo L, vắng mặt.

- Anh Đặng Thế H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN 

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 27/3/2018 do không có tiền ăn tiêu, Phạm Đình N rủ Nguyễn Bảo L đi trộm cắp tài sản tại các khu nhà trọ, L đông ý. N điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 15N1-04627 chở L ngồi phía sau đi từ nhà L đến khu vực nhà trọ thuộc TDP N 3, A, D, Hải Phòng. Sau khi quan sát thấy cổng khu nhà trọ không khóa và không có người trông coi, N dừng xe đứng ngoài để cảnh giới cho L đi bộ vào trong dãy nhà trọ, thấy dây phơi ngoài sân có treo quần áo, L đã lấy 3 chiếc quần dài bằng vải bò cất vào trong túi vải màu trắng chuẩn bị sẵn từ trước rồi đi ra chỗ N đang đợi, cả hai lên xe tiếp tục đi đến khu nhà trọ ở ngõ 476 đường Mạc Đăng D thuộc tổ 5, H, D, thấy không khóa cổng và không có người trông coi, N dừng xe và tiếp tục đứng ngoài cảnh giới, L một mình đi vào dãy trọ lấy được 01 chiếc quần dài bằng vải bò đang treo trên dây phơi quần áo cùng 01 đôi giày da nam màu nâu để ở trước cửa nhà trọ, cho vào túi vải mang theo rồi đi bộ ra cổng nhà trọ gặp N. Khi cả hai lên xe mô tô đi đến đầu ngõ 476 đường Mạc Đăng D thì bị Công an phát hiện.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 10/KLĐG ngày 02/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận D kết luận: 01 Chiếc quần dài vải bò màu đen và 02 chiếc quần dài vải bò màu xanh đã qua sử dụng có trị giá 230.000 đồng; 01 chiếc quần dài, vải bò màu xanh và 01 đôi giày da nam màu nâu, đã qua sử dụng có trị giá là 180.000 đồng. Tổng tài sản được đưa ra định giá có trị giá là 410.000 đồng.

Lời khai của Phạm Đình N phù hợp với lời khai của Nguyễn Bảo L, lời khai của những người bị hại, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu được; kết luận định giá tài sản, và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Về vật chứng:

- Về con dao bầu, Nguyễn Bảo L khai nhận là do L nhặt được ở vỉa hè đường Phạm Văn Đ khi cùng N đi trộm cắp tài sản nên đã mang theo bên người.

- 02 chiếc quần dài, vải bò, màu xanh và 01 chiếc quần dài, vải bò, màu đen N và L trộm cắp được tại khu vực nhà trọ thuộc TDP N 3, A, D qua điều tra xác minh là của các anh Lò Khăm H, sinh năm 1998 và anh Vi Văn Đ, sinh năm 1993 cùng ĐKHKTT: Bản P, xã H, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; 01 chiếc quần dài bằng vải bò dài, màu xanh do N trộm cắp được tại khu nhà trọ ở ngõ 476 đường Mạc Đăng D thuộc tổ 5 H D là của anh Lê Văn H, sinh năm 1985, ĐKHKTT: Nguyệt Â, N, Thanh Hóa, 01 đôi giày nam màu nâu nhãn hiệu Clarks là của anh Ma Công H, sinh năm 1983; ĐKHKTT: Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Các tài sản trên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận D đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở sở hữu hợp pháp.

- Đối với 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 15N1-04627 N sử dụng chở L đi trộm cắp tài sản, N khai mua lại của một người đàn ông tên T không quen biết, qua xác minh chủ xe là anh Đinh Văn T, sinh năm 1983. ĐKHKTT: Thôn B, xã C, huyện Â, tỉnh Hưng Yên. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an quận D anh Tuynh khai chiếc xe trên của anh bị kẻ gian trộm cắp tại Đại Yên, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận D đã có Công văn số ngày 29/5/2018 gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long đề nghị chuyển hồ sơ và chiếc xe mô tô Exciter là vật chứng của vụ việc trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn phường Đại Yên, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh để điều tra theo thẩm quyền. Đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long chưa có công văn trả lời, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận D tách ra xử lý sau.

Đối với đối tượng L có hành vi cùng với bị cáo Phạm Đình N trộm cắp tài sản trị giá 410.000 đồng. Nhân thân Nguyễn Bảo L có 01 tiền án: Án số 201/HSST ngày 16/7/2003 TAND thành phố Hải Phòng xử phạt 04 năm tù về tội Cướp tài sản, đến nay đã được xóa án tích. Do đó hành vi của L không đủ yếu cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận D đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với L.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKSDK ngày 04/07/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận D truy tố bị cáo Phạm Đình N về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b, khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu trên.

Các bị hại anh Anh Vi Văn Đ, anh Lò Khăm Hải; anh Ma Công H, anh Lê Văn H vắng mặt tại phiên tòa, lời khai của các bị hại thể hiện đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt nên không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, đề nghị xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, mức độ, tính nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Đình N với mức án từ 09 đến 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì điều kiện kinh tế khó khăn. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không phải xem xét giải quyết. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

 [1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận D, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Về tội danh:

 [2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu; phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại và những người làm chứng, vật chứng thu giữ được cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 14h30’ ngày 27/03/2018, tại các khu nhà trọ tổ 5 phường H, quận D và khu N 3, phường , quận D, Hải Phòng, lợi dụng lúc vắng người, sơ hở của chủ tài sản, bị cáo vàđồng bọn đã lén lút chiếm đoạt 04 chiếc quần bò và 01 đôi giày nam màu nâu đã qua sử dụng của các anh Vi Văn Đ,  anh Lò Khăm H, anh Ma Công H, anh Lê Văn H có tổng trị giá là 410.000đồng. Tuy giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo có 01 tiền án về hành vi chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên hành vi của bị cáo thỏa mãn cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

 [3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng thiệt hại không lớn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tính chất vụ án, vai trò phạm tội và hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

 [5] Tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân là khách thể được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo.

 [6] Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù bị cáo N có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo đã bị xét xử một lần về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc xử phạt bị cáo N trên mức khởi điểm của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung:

[7] Vì điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

[8] Đã giải quyết xong từ giai đoạn điều tra nên Hội đồng xét xử xét không phải xem xét giải quyết.

Về vật chứng:

 [9] Hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận D đang quản lý: 01 túi vải màu trắng có quai xách; 01 con dao loại dao bầu, cán bằng gỗ dài 25cm, rộng khoảng 04cm, có một đầu nhọn, là vật đối tượng L mang theo không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí:

 [10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về quyền kháng cáo:

[11] Bị cáo, các bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Đình N 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/05/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu trắng kích thước 40x30cm, có quai xách; 01 con dao loại dao bầu, cán bằng gỗ dài 25cm, rộng khoảng 04cm, có một đầu nhọn (theo Biên bản bàn giao vật chứng ngày 05/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận D, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo Phạm Đình N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Phạm Đình N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15

ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại là: Anh Vi Văn Đ, anh Lò Khăm H, anh Ma Công H, anh Lê Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt VB.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 07/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đồ Sơn - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về