Bản án 20/2018/HS-ST ngày 07/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 07/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Y tỉnh Nam Định, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2018/TLST-HS ngày 13/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

- Họ và tên: Trần Đình T, sinh năm 1995; nơi ĐKHKTT tại Tổ 5, Thị Trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Con ông Trần Đình V, sinh năm 1969 và bà Phùng Thị S sinh năm 1971; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất. Vợ là Trương Thị Ngọc A, sinh năm 1995. Con là Trần Đình Th Bảo sinh năm 2014. Tiền án, Tiền sự: Không.  Nhân thân: Ngày 27/3/2013 bị TAND huyện Y xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/02/2018 đến ngày 11/02/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.

- Họ và tên: Nguyễn Thế Ta(Tên gọi khác là Nguyễn Ngọc Ta), sinh ngày 17/10/2001; nơi ĐKHKTT: tại  Tổ 8, Thị Trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 5/12; Con ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1972 và bà Vũ Thị H sinh năm 1974; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 10/9/2017 bị Chủ tịch UBND TT. L, huyện huyện Y, tỉnh Nam Định ra Quyết định số 15/QĐ về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn/ biện pháp quản lý tại gia đình về hành vi cưỡng đoạt tài sản công dân. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/02/2018 đến ngày 11/02/2018  Cơ quan CSĐT-Công an huyện Y áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khởi nơi cư trú”.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Vũ Thị H – Sinh năm 1974.

Địa chỉ: Tổ 8, Thị Trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thế Tài: Ông Lê Ngọc V - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư V - Đoàn luật sư tỉnh Nam Định. 

- Người bị hại: Anh Đoàn Văn Th - Sinh năm 1974

Địa chỉ: Thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định

- Người tham gia tố tụng khác: Những người làm chứng:

Chị Trương Thị Ngọc Anh, sinh năm 1995. Địa chỉ: Khu B, TT. L, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Anh Dương Doãn Thức, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tổ 2, TT. L, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Chị Phùng Thị Sen, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Khu B, TT. L, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Chị Dương Thị Loan, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Anh Lê Văn Thược, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Anh Đoàn Xuân Chương, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Anh Nguyễn Minh Khương, sinh năm 1983. Địa chỉ: Khu A, TT. L, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo Ta, Luật sư bào chữa cho bị cáo Ta, người làm chứng gồm bà S, anh K có mặt tại phiên tòa. Người bị hại, những người làm chứng khác vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng  24h30  ngày  07/02/2018,  Trần  Đình  T  điều  khiển  xe  máy  chở Nguyễn Thế Tađang trên đường về Thị L khi đi đến nhà anh Đoàn Văn Thở Thôn K, xã D, huyện Y, Tâm thấy trong bồn hoa trước cửa nhà anh Thắm có 01 cây đào loại đào phai. Tâm nói với Tài: “Cây đào đẹp nhỉ”, Tài nói: “Để em xuống nhổ cho”. Tài nhảy ra khỏi xe đi về phía cây đào, dùng hai tay nhổ cây đào lên khỏi mặt đất. Sau khi nhổ được cây đào, Tài vác lên vai rồi lên xe máy cùng Tâm chở cây đào về nhà Tâm. Sau đó Tâm đã trồng cây đào vào chậu và bày ở sân nhàmình.

 Sáng ngày 08/02/2018, gia đình anh Đoàn Văn Th phát hiện cây đào nhà mình đã bị kẻ gian trộm cắp nên đã làm đơn trình báo lên Công an huyện Y. Khoảng 17 giờ cùng ngày Công an huyện Y tiến hành lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Đình T phát hiện và thu giữ tại sân nhà Tâm: 01 cây đào cao 2m70, đường kính gốc 14 cm, loại đào phai đang nở hoa, 01 thân 03 cành. Sau khi thu giữ anh Đoàn Văn Th đã xác định đó chính là cây đào mà gia đình anh đã bị mất. Trần Đình T và Nguyễn Ngọc Ta đều khai nhận đó là cây đào mà Ta và T đã trộm cắp của nhà anh Th ở Thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định vào đêm 07/02/2018.

Theo bản kết định giá số 01 ngày 09/02/2018 của hội đồng định giá tài sản huyện Y  kết luận: Cây đào mà Trần Đình T và Nguyễn Thế Ta đã trộm cắp của gia đình anh Đoàn Văn Th ở Thôn K, xã D có trị giá 6.000.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 10/02/2018 cơ quan CSĐT- Công an huyện Y đã trả lại cây đào có đặc điểm như nêu trên cho gia đình anh Đoàn Văn Thắm. Anh Thắm nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Về xử lý vật chứng: Chiếc xe máy BKS 17F4-9508 là xe máy của anh Nguyễn Minh K cho T mượn để đi chơi, anh K không biết việc T và Ta dùng xe của mình để trộm cắp. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Y xác định chiếc xe máy không phải vật chứng vụ án nên không tiến hành thu giữ. Cây đào đã được trả lại cho anh Th, anh Th không có yêu cầu gì khác.

Bản Cáo trạng số 17/Ctr - VKS-HS, ngày 11/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Đình T và Nguyễn Thế Ta về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Ta: Xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ta.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Tài nhất trí với lời bào chữa của Luật sư và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Ta.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản Cáo trạng số 17/Ctr - VKS-HS, ngày 11/4/2018 và đề nghị: Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/02/2018; Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điều 91, Điều 101; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thế Ta từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự và vật chứng của vụ án: Đã xử lý xong nên không xem xét giải quyết.

Các bị cáo, luật sư, người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Y tỉnh Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Trần Đình T và Nguyễn Thế Ta không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 24h30 ngày 07/02/2018, tại gia đình anh Đoàn Văn Thở Thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định, Trần Đình T và Nguyễn Thế Ta đã lợi dụng sự sở hở của gia đình anh Thắm, lén lút chiếm đoạt 01 cây đào phai của gia đình anh Thắm trị giá 6.000.000đ.

Hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội; đã trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây nên tình hình mất trật tự trị an xã hội nói chung, ảnh hưởng xấu đến phong trào bảo vệ an ninh ở địa phương, gây sự bất bình trong nhân dân. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS đúng như Cáo trạng của VKS đã truy tố.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo T và Ta thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là các tình tiết giảm nhẹ TNHS các bị cáo được hưởng quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Ta được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đó là người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ta.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo; căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo T có nhân thân xấu, ngày 27/3/2013 bị TAND huyện Y xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục có hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm gương cho những kẻ khác; Bị cáo Ta đã từng bị Chủ tịch UBND thị trấn Lâm, huyện huyện Y, tỉnh Nam Định ra Quyết định số 15/QĐ vào ngày 10/9/2017 về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn/ biện pháp quản lý tại gia đình về hành vi cưỡng đoạt tài sản công dân nhưng biện pháp giáo dục này không có tác dụng răn đe đối với bị cáo nên cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm gương cho kẻ khác. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo mới 16 tuổi 4 tháng. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Điều 91, Điều 101 BLHS.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra công an huyện Y đã xử lý xong.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đoàn Văn Th đã nhận lại cây đào và không có yêu cầu đề nghị gì khác.

[7] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016  của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo, người đại diện theo pháp luật của bị cáo, luật sư, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 231, 233, 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tuyên bố Trần Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/02/2018; Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điều 91, Điều 101, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tuyên bố Nguyễn Thế Ta (Nguyễn Ngọc Ta) phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt Nguyễn Thế Ta 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. (Bị cáo Tài được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 08/02/2018 đến ngày 11/02/2018).

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Trần Đình T và Nguyễn Thế Ta mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo, người đại diện  hợp pháp của bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

361
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 07/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện ý Yên - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về