Bản án 20/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 06/04/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2018/HSST ngày 21 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị M, sinh năm 1982, tại L, C, Hải Dương. Nơi cư trú: Khu A, thị trấn G, huyện G , tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị L; chồng: Phạm Quang T, có 02 con, con lớn 13 tuổi, con nhỏ 7 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 11/01/2018 đến ngày 13/01/2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).

Người làm chứng:

1.  Ông Trương Đình B, sinh năm 1961 (Vắng mặt).

Địa chỉ:  Thôn A, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.

2.  Anh Đoàn Văn L, sinh năm 1994 (Vắng mặt).

Địa chỉ; Thôn Q, xã T, G, Hải Dương

3.  Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt  như sau: Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 11/01/2018 tại khu vực bờ hồ ao đầm thuộc khu A, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương. Lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an thị trấn Gia Lộc phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị M đang có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số lô cho anh  Trương  Đình  B, ở thôn  A, xã Đ, huyện  G, tỉnh  Hải Dương với  số tiền 2.600.000đồng, bán số lô cho anh Đoàn Văn L ở  thôn Q, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương với số tiền 3.000.000đồng, thu giữ vật chứng gồm của Trương Đình B và Đoàn Văn L 02 mảnh giấy (Tích kê) có ghi các số lô bằng mực bút bi màu đen. Thu giữ của Nguyễn Thị M 01 tờ giấy ô ly có ghi các số lô bằng mực bút bi màu đen và số tiền 5.600.000đồng là tiền do M bán số lô cho B và L.

Tại bản kết luận giám định số 07/KLGĐ ngày 07/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chữ viết, chữ số ghi trên các tài liệu cần giám định (Ký hiệu A1-A3) với chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu so sánh (Ký hiệu M1-M3) là do cùng một người viết ra.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Bị cáo khai nhận đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô cho anh Trương Đình B và Đoàn Văn L với số tiền là 5.600.000đồng thì bị phát hiện bắt quả tang. Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quyết định truy tố số 21/QĐ-VKS-GL ngày 19/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Nguyễn Thị M về tội “Đánh bạc’’ theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 02 ngày tạm giữ bằng 06 ngày cải tạo không giam giữ. Thời gian tính từ ngày UBND thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.

Khấu trừ từ 05% đến 10% thu nhập hàng tháng của bị cáo sung ngân sách Nhà nước.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Phạt bị cáo từ 10.000.000đồng đến 12.000.000đồng sung ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 5.600.000 đồng.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015. Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 11/01/2018 tại khu vực bờ hồ ao đầm thuộc khu 6, thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Bị cáo Nguyễn Thị M đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số lô cho anh Trương Đình B và Đoàn Văn L thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ số tiền M đánh bạc với Bắc và Lành là 5.600.000đồng

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, số tiền bị cáo thu được từ việc đánh bạc là 5.600.000đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Đánh bạc” nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị M về tội “ Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự công cộng, trong khi Nhà nước ta coi đánh bạc là tội phạm hình sự, là một tệ nạn xã hội và là nguyên nhân dẫn đến các vi phạm pháp luật khác nên việc xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự là cần thiết nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung có hiệu quả.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn P được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ quy định của bộ luật hình sự, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo HĐXX thấy: Bị cáo là người có nhân thân thân tốt, phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội, cho bị cáo được hưởng mức án có điều kiện quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Thị M đánh bạc trái phép thu lợi bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp với khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 5.600.000đồng thu giữ của bị cáo là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

[9] Các vấn đề khác: Đối với các đối tượng Trương Đình B và Đoàn Văn L là người mua số lô của Nguyễn Thị M nhưng số tiền đánh bạc của B và L đều dưới 5.000.000đồng, các đối tượng cũng chưa bị xử lý hành chính về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, chưa bị kết án về tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với B và L là phù hợp pháp luật.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị M khai ghi bán số lô, số đề thuê cho người tên N ở thành phố Hả nhưng không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “ Đánh bạc”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1,3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 36; điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 09 tháng cải tạo không giam giữ (Được trừ 02 ngày tạm giữ (từ ngày 11/01/2018 đến ngày 13/01/2018) bằng 06 ngày cải tạo không giam giữ), còn phải chấp hành 08 tháng 24 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ  05% thu nhập hàng tháng của bị cáo sung ngân sách Nhà nước. Thời gian khấu trừ bằng thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Thị M cho UBND thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

3. Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Thị M 10.000.000đồng nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 5.600.000đồng (Số tiền được niêm phong trong 01 phong bì dán niêm phong số 07/CAGL ngày 08/3/2018, theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày 04/4/2018).

5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về