Bản án 20/2017/KDTM-ST ngày 28/07/2017 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 20/2017/KDTM-ST NGÀY 28/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong ngày 28 tháng 6 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TânThành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công  khai vụ án thụ lý số: 22/2017/TLST-KDTM ngày 19/4/2017 về việc “Tranh  chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 17/2017/QĐXXST-KDTM ngày 27/6/2017; Quyết định hoãn phiên tòa 20/2017/QĐST-KDTM  ngày 13/7/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH SX TM Xuất nhập khẩu Th

Địa chỉ: B ấp B1, xã B2, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Vương Văn Đ - Giám đốc (Có mặt)

2. Bị đơn: Công ty TNHH Gạch men M

Địa chỉ: Khu công nghiệp M, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện theo pháp luật: Ông AL – Giám đốc (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu Th (gọi tắt là bên bán) và Công ty TNHH Gạch men M (gọi tắt là bên mua) có quan hệ mua bán hàng hóa. Ngày 25/11/2011 hai bên có ký hợp đồng nguyên tắc số 11-2511/TA- MĐ, sản phẩm là keo dán gia nhiệt dùng để dán thùng carton, đơn giá bán 95.000 đồng/kg (chưa thuế VAT), phương thức thanh toán là chuyển khoản trong vòng 90 ngày kể từ khi nhận hàng và hóa đơn giá trị gia tăng và cung cấp hàng theo đơn đặt hàng của bên mua. Tháng 01/2013 bên mua có đơn đặt hàng mua sản phẩm là 1.250 kg keo dán, giá trị đơn hàng là 128.425.000 đồng (có thuế VAT).

Bên bán đã thực hiện việc giao hàng và xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho bên mua. Chứng từ mà bên bán xuất trình là hóa đơn tài chính số 0000839 ngày 25/01/2013, tổng giá trị là 128.425.000 đồng. Ngoài ra bên bán còn cung cấp vă bản đối chiếu và kế hoạch thanh toán nợ ngày 08/10/2013 của bên mua do giám đốc tài chính ký và đóng dấu, theo đó bên mua đã còn nợ tổng cộng 128.425.000 đồng, thời điểm thanh cuối cùng là tháng 01/2014. Tuy nhiên bên mua không thực hiện đúng cam kết. Như vậy bên mua đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng. Mặc dù bên bán liên tục đôn đốc nhắc nhở trả nợ, nhưng bên mua không thực hiện là vi phạm thỏa thuận về việc thanh toán.

Nay bên bán khởi kiện yêu cầu bên mua phải thanh toán 128.425.000 đồng tiền mua hàng.

Bị đơn đã được Toà án triệu tập nhiều lần nhưng đều vắng mặt. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn cố tình vắng mặt và cũng không có ý kiến hay nộp chứng cứ đến Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành:

Vụ án không thuộc những trường hợp được quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự nên Đại diện Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu Th (bên bán) và Công ty TNHH Gạch men M (bên mua) là quan hệ kinh doanh thương mại về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”; Bị đơn có trụ sở tại huyện Tân Thành nên Tòa án nhân dân huyện Tân Thành thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 30, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn – Công ty TNHH Gạch men M, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ kiện: Tháng 01/2013 sau khi nhận đơn hàng thì bên bánđã cung cấp hàng hóa là 1000 kg keo dán gia nhiệt AE-390N và 250 kg keo dán gia nhiệt AE-412 cho bên mua. Các bên thỏa thuận về việc chất lượng hàng hóa, thời gian địa điểm phương thức giao hàng, thanh toán và đã cùng nhau thực hiện các thỏa thuận trên. Bên bán đã thực hiện việc giao hàng đầy đủ, xuất hóa đơn giao cho bên mua và đối chiếu công nợ, bên mua cũng không có khiếu nại gì khi nhận hàng hóa từ bên bán giao.

Theo sự đối chiếu xác nhận và kế hoạch thanh toán công nợ được ông M (Giám đốc tài chính của Công ty) ký xác nhận ngày 08/10/2013. Bên mua sẽ thanh toán toàn bộ số tiền 128.425.000 đồng nhưng chia làm 4 đợt, đợt cuối cùng vào tháng 01/2014. Như vậy số tiền hàng mà bên bán yêu cầu thanh toán là phù hợp với số tiền trên hóa đơn giá trị gia tăng đã cung cấp cho bên mua. Đối với bên mua Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng không đến tòa cung cấp đối chiếu nợ nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình.

Căn cứ vào sự thừa nhận của bên bán cũng như bảng sao kê của Ngân hàng từ thời điểm tháng 2/2012 đến tháng 6/2013 bên mua đã thanh toán tiền của các đơn hàng trước đó bằng hình thức chuyển khoản, nhưng chưa thanh toán số tiền128.425.000 đồng vì đến ngày 08/10/2013 mới xác nhận nợ. Nay bên bán yêu cầu bên mua phải thanh toán số tiền trên là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận.

[3] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bên mua phải chịu toàn bộ tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm (128.425.000 đồng x 5% = 6.421.250 đồng).

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 30; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 50 Luật thương mại.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu Th đối với Công ty TNHH Gạch men M về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Buộc Công ty TNHH Gạch men M có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu Th số tiền 128.425.000 đồng (Một trăm hai mươi tám triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm trả số tiền hàng thì hàng tháng còn phải trả thêm số tiền lãi theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH Gạch men M phải nộp 6.421.250 đồng (Sáu triệu bốn trăm hai mươi mốt nghìn hai trăm năm mươi đồng).

Hoàn lại cho Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu Th 3.210.000 đồng (Ba triệu hai trăm mười nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003798 ngày 19/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn này được tính từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

552
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2017/KDTM-ST ngày 28/07/2017 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:20/2017/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về