Bản án 20/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN  20/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/12/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 21/2017/HSST ngày 07/12/2017 đối với bị cáo.

Họ và tên: Chang Thị T (Tên gọi khác: Không) Sinh năm 1979 tại: Xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Trú tại: Bản N, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chang A P (đã chết) và con bà Sùng Thị D (đã chết); Có chồng là Lỳ A Ch (đã chết) và có 03 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 11/9/2017 đến ngày 14/9/2017, tạm giam từ ngày 14/9/2017 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch: Anh Thào A V - SN 1986 - Có mặt.

Trú tại: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên.

NHẬN THẤY

Bị cáo Chang Thị T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố về hành vi phạm tội như sau.

Vào khoảng 4 giờ 5 phút ngày 11/9/2017 tổ công tác Công an huyện Mường Nhé làm nhiệm vụ tại khu vực bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên thì bắt quả tang Chang Thị T đang cất giấu trái phép 04 gói thuốc phiện đựng trong 1 chiếc ba lô vải cũ. Tổ công tác tiến hành bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng vụ án là 04 gói thuốc phiện; 01 chiếc ba lô vải màu nâu cũ đã qua sử dụng và 01 chiếc đèn pin do Trung Quốc sản xuất. Chang Thị T khai nhận số thuốc phiện T có được là do ngày 11/9/2017 T mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại khu vực bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên với giá tiền là 2.000.000 đồng. Mục đích T mua thuốc phiện về để sử dụng.

Ngày 12/9/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Nhé cùng với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành mở niêm phong, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng. Bản kết luận giám định số: 766/GĐ-PC54 ngày 29/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu vật gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Chang Thị T là thuốc phiện. Trọng lượng vật chứng thu giữ của Chang Thị T là 298,83 gam.

Bản cáo trạng số: 01/QĐ-VKS-HS ngày 06/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố bị cáo Chang Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát duy trì công tố tại phiên tòa hôm nay giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm b khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Đề nghị xử phạt bị cáo Chang Thị T từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy số thuốc phiện và 01 chiếc ba lô vải màu nâu cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc đèn pin có dây đeo đội đầu do Trung Quốc sản xuất. Miễn toàn bộ án phí cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu, đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định:

Vào hồi 4 giờ 5 phút ngày 11/9/2017 bị cáo Chang Thị T tàng trữ trái phép 298,83 gam thuốc phiện trên người tại khu vực bản Nậm Là, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng là hoàn toàn đúng sự thật. Hành vi tàng trữ trái phép 298,83 gam thuốc phiện của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây những tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng các tệ nạn xã hội; Là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần xử lý bị cáo có mức hình phạt thỏa đáng phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu, vùng xa, nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Chang Thị T từ 30 đến 36 tháng tù. Xét thấy đề nghị này của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó cần xem xét, xử phạt bị cáo như mức đề nghị của Viện Kiểm sát.

Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo thuộc hộ nghèo, kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 194 BLHS đối với bị cáo.

Đối với đối tượng là người đàn ông dân tộc Mông, đã bán thuốc phiện cho bị cáo. Do bị cáo không biết rõ ông ta là ai và ở đâu, cơ quan điều tra không xác minh được đối tượng này nên chưa có cơ sở để xử lý.

Về vật chứng vụ án: Đối với số thuốc phiện 288,33 gam còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy; Đối với chiếc ba lô vải màu nâu cũ đã qua sử dụng và 01 đèn pin, xét thấy đây là chiếc ba lô mà bị cáo đã dùng để đựng thuốc phiện, còn đèn pin là vật để bị cáo soi đường đi mua thuốc phiện, hiện chiếc ba lô và đèn pin đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Xét thấy gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo năm 2017 (Theo Giấy chứng nhận hộ nghèo do UBND xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên cấp năm 2017). Nên cần miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Chang Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Chang Thị T 34 (ba mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 11/9/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 288,33 gam thuốc phiện; 01 chiếc ba lô vải màu nâu cũ đã qua sử dụng và 01 đèn pin là vật chứng vụ án Chang Thị Tùng; Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/12/2017 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Chang Thị T.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về