Bản án 201/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 201/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 25 tháng 05 năm 2020, tại h ội trường Tòa án nhân dân TPTN, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số : 181/2020/TLST-HS ngay 08 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2020 đôi vơi bi cáo: Thái Văn T- sinh ngày 01/7/1959, tạiThái Nguyên;

Nơi thường trú: tổ u, phường QT, TPTN, nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; Con ông: Thái Văn B (đã chết) và bà: Phạm Thị G (đã chết), gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2; vợ: Phạm Thị T (đã chết); có 01 con sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: 02

-Tại Bản án số 10/HSST ngày 11/12/1990Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” và miễn hình phạt về tội “Trốn khỏi nơi giam”.

-Tại Bản án số 74/HSST ngày 22/4/2004 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”,chấp hành xong án phí và truy thu sung ngân sách.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2020 cho đến nay, hiện tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi làm chứng: Chị Thái Thị Huyền T, sinh năm 1990 Chỗ ở: tổ k, phường TV, TPTN (có mặt)

*Người chứng kiến:

1)Ông Đồng Xuân Q, sinh năm 1960 (vắng mặt) Trú tại: tổ u, phường PĐP, TPTN

2)Anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 1986 (vắng mặt) Trú tại: số nhà t, tổ b, phường QT,TPTN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 12/02/2020 Thái Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20M7-0019 đến khu vực đầu cầu MB thuộc phường QV, TPTN để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây T gặp một người phụ nữ không quen biết hỏi mua 400.000 đồng ma túy, sau khi đưa tiềnngười phụ nữ chỉ T ra gốc cây ở lề đường lấy ma túy. Khi ra chỗ người phụ nữ chỉ, T lấy 01 túi nylon mầu hồng bên trong có chứa chất bột màu trắng, cầm gói ma túy cất vào trong túi quần bên trái phía sau đang mặc rồi sau đó điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Hồi 15 giờ 45 phút cùng ngày khi T đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20M7-0019 đến khu vực đầu cầu GB (gần khu vực tổ 5, phường PĐP)thì gặp tổ công tác của Công an phường PĐP, TPTN tuần tra kiểm soát thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra cơ quan công an đã thu giữ tại túi quần phía sau bên trái của T đang mặc có 01 gói nylon màu hồng bên trong có chứa chất bột màu trắng (niêm phong ký hiệu A), T khai nhận là Heroine T mua để sử dụng; thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 20M7-0019 và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng trong cốp xe mô tô, T khai nhận mua khoảng 19 giờ 00 ngày 11/2/2020 để sử dụng nhưng chưa sử dụng hết. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong theo quy định, cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TPTN tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chât bôt mau trăng thu giữ của Thái Văn T đối với bì ký hiệu A có khối lượng 0,270 gam, niêm phong ký hiệu T1 và bì ký hiệu B có khối lượng 0,038 gam, niêm phong ký hiệu T2 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 323/KL-KTHS ngày 20/2/2020của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu T1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,270 gam.Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu T2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,038 gam.

Bản cáo trạng số 180/CT-VKSTPTN ngày 01 tháng 04 năm 2020 của Viện kiêm sat nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Thái Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm ckhoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Thái Văn T thừa nhận do nghiện ma túy nên đi mua ma túy về sử dụng và bị lực lượng công an khám xét thu giữ như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TPTN luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Thái Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Thái Văn T từ 30 đến 36 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu T1, T2; Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòabị cáokhông có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hộiđồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2]Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Thái Văn T tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng được thu của Thái Văn T là Heroine.Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy Thái Văn T đã mua Heroin về sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ hồi 15 giờ 45 phút ngày 12/2/2020 tại khu vực ngã tư đường Cách mạng tháng tám thuộc tổ 5, phường PĐP, TPTN thì bị lực lượng công an yêu cầu kiểm tra, thu giữ vật chứng, qua cân kiểm tra số chất bột màu trắng xác định tổng khối lượng 0,308 gam, giám định là Heroine.

[3]Với hành vi cất giữ 0,308 gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của bị cáo Thái Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[4]Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

[5]Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mìnhlà tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;xét nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện, đã bị xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy đến nay đã được xóa án tích tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “ phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có tài sản và thu nhập do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lývật chứng: Đối với bì niêm phong Heroine cần tịch thu tiêu hủy. Đối với xe mô tô BKS 20M7-0019 bị cáo sử dụng đi mua ma túy, qua xác định chủ sở hữu là Thái Thị Huyền T2 (con gái bị cáo T), chị T2 cho T mượn để sử dụng tuy nhiên chị T2 không biết T sử dụng xe đi mua ma túy nên cơ quan điều tra Công an TPTN đã trả cho chị T2 quản lý sử dụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9]Về nguồn gốc số Heroine,Thái Văn T khai mua của người phụ nữ không quen biết, quá trình điều tra cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của người bán ma túy nên chưa có căn cứ xem xét.

[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy có phần nghiêm khắc.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Thái Văn T phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Thái Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 12/02/2020.

[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Thái Văn T 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong dúng quy định ký hiệu: T1(bên trong có chứa 0, 254 gam mẫu T1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu T1), 01 (một) Bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: T2 (bên trong có chứa 0,025 gam mẫu T2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu T2), mặt sau mỗi bì niêm phong có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái nguyên và chữ ký ghi họ tên: Trương Đăng T3.

(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự TPTN theo biên bản giao nhận số 307 lập ngày 11/5/2020).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứkhoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Thái Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Thái Văn Tcó quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:201/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về