Bản án 201/2019/HS-ST ngày 01/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 201/2019/HS-ST NGÀY 01/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 185/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Ngọc V; Tên gọi khác: Bầu, Lõi; Sinh ngày: 12/11/1974;Tại: tỉnh Thừa Thiên Huế;Nơi cư trú: 56 C, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Tiền án, tiền sự: Không;

Con ông: Lê Ngọc Đ, sinh năm 1941; con bà Trần Thị A (đã chết). Hiện trú tại: Thành phố P, tỉnh Gia Lai.Gia đình bị cáo có ba anh, em ruột, bị cáo là con đầu trong gia đình; Bị cáo có vợ là Đào Thị Kiều L(đã ly hôn); bị cáo có con là Lê Đào Sy T, sinh năm 1996. Hiện đều trú tại thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình nhân thân: Từ nhỏ sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau đó, theo gia đình chuyển đến thành phố Buôn Ma Thuột sinh sống và được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 10/12, rồi nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình.

Ngày 30/11/1998, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm tuyên phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Vi phạm các quy định về bảo vệ rừng (tại bản án 99/HSST) Ngày 22/5/2019, bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Buôn Ma Thuột bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị tạm giữ. Ngày 28/5/2019, bị khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột cho đến nay.Có mặt tại phiên tòa.

-Người chứng kiến:

1. Ông Ngô Tiến D-sinh năm 1956; địa chỉ: 75 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk; (Vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị H-sinh năm 1969; địa chỉ: 327 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Ngọc V là đối tượng nghiện ma túy loại Heroine. Vào khoảng 11h30’ ngày 22/5/2019, V và đối tượng nam giới tên Cọ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) rủ nhau mua ma túy về sử dụng. V góp số tiền 100.000đồng, Cọ góp 700.000đồng, rồi Cọ điều khiển xe mô tô hiệu Taurus, màu đen (không rõ biển số) của mình chở V đến khu vực nghĩa địa cũ đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột gặp đối tượng nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 gói giấy bạc chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy, V cất vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi cùng Cọ đi về. Khi cả hai đi đến khu vực đường Nguyễn Tri Phương giao với đường Trần Phú, V xuống xe đứng đợi Cọ đi mua kim tiêm và nước cất, thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ: 01 gói giấy bạc chứa chất rắn dạng cục màu trắng, V khai là ma túy loại Heroine, đã niêm phong theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số: 427/GĐMT- PC09 ngày 27/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng cục màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc thu giữ của Lê Ngọc V được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Heroine, khối lượng 0,2569 gam.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1950 gam Heroine.

Tại bản cáo trạng số 206/CT-VKS ngày 11 tháng 7 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Lê Ngọc V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tp. Buôn Ma Thuột giữ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Ngọc V như bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Áp dụng Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc V từ 01(Một) năm 06 tháng đến 02(hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

-Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Lê Ngọc V, Công an thành Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

-Đối với nguồn ma túy thu giữ được, bị cáo V khai nhận góp tiền với đối tượng Cọ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để mua của đối tượng nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực nghĩa địa cũ đường Phan Bội Châu, phường Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên tách hành vi của các đối tượng trên ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

-Xử lý vật chứng: Đối với: 0,1950 gam Heroine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 427/GĐMT-PC09 ngày 27/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, kèm theo số thuê bao 0706.893.083, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo V không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo V nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án là phù hợp.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Lê Ngọc V không tranh luận gì thêm thừa nhận hành vi phạm tội của mình đã gây ra, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng một mức án nhẹ nhất vì bị cáo đã ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột; Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Lê Ngọc V tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo, người chứng kiến trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng đã thu được tại hiện trường; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện… nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12h30’ ngày 22/5/2019, tại khu vực trước số nhà 75A N, phường T, thành phố B, Lê Ngọc V có hành vi tàng trữ 0,2569 gam ma túy loại Heroine để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang là phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

……;

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Ngọc V là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về ma túy vì Heroine là chất ma túy ở mục 20 thuộc danh mục I được ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ; theo đó, Nhà nước tuyệt đối cấm sử dụng chất này trong y học và đời sống xã hội bởi hệ lụy của ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác.

Khi phạm tội, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, bị cáo biết và buộc phải biết việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều bị coi là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị pháp luật trừng trị bằng hình phạt; nhưng do ý thức coi thường pháp luật, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,2569 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã bất chấp pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội trong công cuộc phòng, chống ma túy.

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Do đó, cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[5]các biện pháp tư pháp: Đối chiếu với quy định tại Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:

-Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Lê Ngọc V, Công an thành Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

-Đối với nguồn ma túy thu giữ được, bị cáo V khai nhận góp tiền với đối tượng Cọ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để mua của đối tượng nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực nghĩa địa cũ đường Phan Bội Châu, phường Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên tách hành vi của các đối tượng Cọ trên ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

-Cần tịch thu tiêu hủy 0,1950 gam Heroine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 427/GĐMT-PC09 ngày 27/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là phù hợp;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, kèm theo số thuê bao 0706.893.083, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo V không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo V nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án là phù hợp.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 21, Điều 22 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Lê Ngọc V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Lê Ngọc V:02(Hai) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, tạm giữ ngày 22/5/2019.

*Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy đối với 0,1950 gam Heroine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số:427/GĐMT-PC09 ngày 27/5/2019 phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk -Trả lại cho bị cáo Lê Ngọc V 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, kèm theo số thuê bao 0706.893.083 là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án(Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).

-Về án phí: Bị cáo Lê Ngọc V phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2019/HS-ST ngày 01/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:201/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về