Bản án 201/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về ly hôn và con chung 

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 201/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG 

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 428/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 188/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 172/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị N; địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn Q; địa chỉ: Thôn N, xã P huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Lê Thị N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị N và anh Phạm Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P (Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 23 tháng 10 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã P). Sau khi cưới, vợ chồng làm ăn sinh sống tại thôn N, xã P. Quá trình chung sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh Q có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh Q không thay đổi dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh Phạm Văn Q.

- Về con chung: Chị Lê Thị N và anh Phạm Văn Q có hai con chung là Phạm Lê Tuấn L, sinh ngày 17 tháng 01 năm 2008 và Phạm Lê Khánh L, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2014. Hiện nay chị N đang nuôi con tên L. Khi ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi con chung Phạm Lê Khánh L; đề nghị Tòa án tiếp tục giao con Phạm Lê Tuấn L cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N đề nghị để chị và anh Q tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị N trình bầy không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai đề nghày 20 tháng 6 năm 2019 bị đơn anh Phạm Văn Q trình bầy: Anh Q và chị N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P. Quá trình chung sống thỉnh thoảng vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, căng thẳng nhất vào tháng 4 năm 2019. Nguyên nhân do anh đánh đuổi vợ. Bố mẹ hai bên gia đình đã hòa giải nhưng chị N không đồng ý. Chị N có đơn xin ly hôn, anh Q không đồng ý, mong muốn vợ chồng về đoàn tụ nuôi dạy con cái. Vợ chồng có hai con chung, hiện nay anh đang nuôi dưỡng con Phạm Lê Tuấn L, chị N đang nuôi con Phạm Lê Khánh L. Trường hợp ly hôn, anh Q đề nghị được giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay. Về tài sản chung: Anh Q không đề nghị Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và nuôi con của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời khai của chị Lê Thị N tại Tòa án phù hợp với tài liệu đã giao nộp cho Tòa án, phù hợp với tài liệu xác minh có trong hồ sơ. Tài liệu xác minh thể hiện chị N và anh Q có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng khó có khả năng đoàn tụ. Anh Q và chị N đều có khả năng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Văn Q cư trú tại xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; anh Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa; chị Lê Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt vì bận công việc không đến phiên tòa được. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh Q đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 23 tháng 10 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã P ). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị N được ly hôn anh Q.

[3]. Về con chung: Chị N và anh Q có hai con chung là Phạm Lê Tuấn L, sinh ngày 17 tháng 01 năm 2008 và Phạm Lê Khánh L, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2014. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị N đang trực tiếp nuôi con chung tên L, anh Q đang trực tiếp nuôi con chung tên L. Chị N và anh Q đều đề nghị được giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay. Vì vậy, tiếp tục giao cho chị Ngân trực tiếp nuôi con chung Phạm Lê Khánh L, anh Quyền trực tiếp nuôi con chung Phạm Lê Tuấn L là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N và anh Q đề nghị tự giao nhận cho nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị N và anh Q chưa có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị N được ly hôn anh Phạm Văn Q.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Lê Khánh L, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2014; giao cho anh Phạm Văn Q trực tiếp nuôi con chung Phạm Lê Tuấn L, sinh ngày 17 tháng 01 năm 2008; cho đến khi mỗi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002625 ngày 04 tháng 6 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Lê Thị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về ly hôn và con chung 

Số hiệu:201/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về