TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY - TP HÀ NỘI
BẢN ÁN 201/2017/HSST NGÀY 31/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 191/2017/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Quốc T - Sinh năm 1976; ĐKHKTT: P 108 B3 tập thể K, quận Đ, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Văn hoá: 7/12; Con ông: Bùi Hứa H; Con bà: Hoàng Thị N. Theo danh chỉ bản số 00249 lập ngày 07/7/2017 của Công an quận C và lý lịch tư pháp thì bị cáo có tiền án tiền sự như sau: Ngày 20/10/1990, Công an quận Đ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa;
Ngày 13/6/1995, Tòa án nhân dân TP H xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân, thời hạn tù tính từ ngày 07/9/1994. Ra tù ngày 12/02/1996. (đã xóa án tích);
Ngày 27/8/1998, Tòa án nhân dân quận T xử phạt 28 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, thời hạn tù tính từ ngày 14/3/1998. Ra tù ngày 14/3/2000. (đã xóa án tích);
Ngày 28/4/2010, Tòa án nhân dân quận Đ xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 03/3/2010. Ra tù ngày 03/9/2012. (đã xóa án tích), Bị cáo bị bắt quả tang 03/7/2017. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an TP Hà Nội. (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Bùi Quốc T bị Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 20 giờ 20’ ngày 03/7/2017, tổ công tác Công an phường N phát hiện bắt quả tang Bùi Quốc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại trước cửa số nhà 51 ngõ 165 C khi T đi cùng chị Vũ Kim H (SN: 1967, HKTT: 65 B, quận H, Hà Nội) và cháu Vũ Minh A (SN: 2013). Quá trình kiểm tra, tổ công tác thu giữ trong bỉm của cháu Vũ Minh A đang mặc 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng bên ngoài dán băng dính màu đen. Ngoài ra cơ quan công an còn thu giữ của Bùi Quốc T 01 xe máy Honda Lead BKS: 29P1 - 393.09, 01 điện thoại di động Iphone 5 trong có số sim 0985848181; thu giữ của cháu Minh A 01 bỉm trẻ em màu trắng.
Kết luận giám định số 4646 ngày 09/8/2017 của PC 54 Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nilon thu giữ của Bùi Quốc T là Methamphetamine, trọng lượng 9,812 gam.
Bùi Quốc T khai nhận: Trung nghiện ma túy từ năm 1997, khoảng 19h30’ ngày 03/7/2017, T điều khiển xe máy Honda Lead BKS: 29P1 - 393.09 chở chị Vũ Kim H (vợ của T nhưng không đăng ký kết hôn) và cháu Vũ Minh A (cháu ruột của H) đi chơi. Khi đi đến khu vực đường Láng (T không nhớ rõ địa chỉ) thì T dừng xe vào quán nước ven đường để uống nước, còn chị H đưa cháu Minh A đi vệ sinh và thay bỉm. Tại đây T gặp và mua của 01 thanh niên không quen biết 01 túi nilon màu trắng bên ngoài dán băng dính màu đen bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá với giá 2.500.000 đồng với mục đích mang về sử dụng. Khi chị H và cháu Minh A quay lại, Trung đã tự tay cất giấu túi ma túy đá vừa mua được vào bên trong bỉm phía trước bụng của cháu Vũ Minh A đang mặc. Sau đó T điều khiển xe máy chở cháu Minh A ngồi giữa, chị H ngồi sau đi đến ngõ 165 đường C, Hà Nội. Khi đi đến trước số 51 ngõ 165 C thì bị lực lượng công an tiến hành kiểm tra. Việc Trung mua và cất giấu ma túy vào trong bỉm cháu Vũ Minh A, chị H không biết.
Xét nghiệm nước tiểu của T cho kết quả dương tính với chất ma túy. Chị Vũ Kim H khai phù hợp với lời khai của T. Chị H không biết việc T mua và cất giấu ma túy vào trong bỉm của cháu Minh A.
Xét nghiệm nước tiểu của chị H cho kết quả âm tính với chất ma túy.
Chiếc xe máy Lead BKS: 29P1 - 393.09 Trung khai mượn của D là cháu ngoài xã hội (không rõ nhân thân, lai lịch). Xác minh tại phòng CSGT Công an TP Hà Nội, chiếc xe Lead có SM: 606123, SK: 570699 thu giữ của T mang BKS: 29M1 - 434.45 do chị Đàm Huyền Tr (địa chỉ: Y, xã T, huyện Thanh Trì) là chủ sở hữu. Chị Tr khai tháng 10/2015 chị Tr có mua chiếc xe Lead trên và làm thủ tục đăng ký xe, đến ngày 17/9/2016 chị bị mất chiếc xe tại số 61 đường bờ sông cầu K, phường T, quận H, Hà Nội và đã trình báo công an phường T.
Ngày 28/9/2017, Cơ quan CSĐT Công an quận C đã trả lại chiếc xe trên cho chị Đàm Huyền Tr. Sau khi nhận lại tài sản, chị Tr không có yêu cầu gì về dân sự.
Xác minh BKS: 29P1 - 393.09 là của xe Airblade do anh Hoàng Văn S (tổ B, Thị trấn T, huyện X) là chủ xe. Anh S khai hiện nay anh vẫn đang sử dụng chiếc xe trên, anh không cho ai mượn và cũng không bị mất biển kiểm soát xe máy. 01 điện thoại di động Iphone 5 màu ghi trong có sim số 0985848181 là chiếc điện thoại Trung để liên lạc hàng ngày không liên quan đến vụ án.
Tại bản cáo trạng số 196/CT-VKSCG ngày 06 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố bị cáo Bùi Quốc T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy tham gia phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Quốc T từ tháng 48 đến 54 tháng tù. Miễn phạt tiền đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 41 BLHS, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo và trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di độngIphone 5 màu ghi.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, phù hợp với kết luận giám định về số matúy đã thu giữ, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20h20’ ngày 03/7/2017 Bùi Quốc T có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 9,812 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang tại trước cửa số 51 ngõ 165 C, phường D, Hà Nội nên bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước ta, bị cáo là con nghiện nhận thức rất rõ về tác hại của ma tuý nó là chất gây nghiện và gây ra nhiều tội phạm khác, nên Nhà nước ta xử lý nghiêm đối với các loại tội phạm về ma tuý, song do bị cáo không làm chủ được bản thân đi ngược lại với lợi ích xã hội vẫn cố tình đi mua ma tuý mục đích để sử dụng cho bản thân nhằm thoả mãn cơn nghiện. Hành vi phạm tội của bị cáo còn làm mất trật tự trị an trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm, nên lần phạm tội này cần phải xử lý thật nghiêm khắc bắt bị cáo phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và phòng ngừa chung.
Xét về nhân thân của bị cáo có nhân thân xấu nhiều lần đã bị đưa ra về tội chiếm đoạt tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật, nên lần phạm tội tuy không phải là tái phạm, nhưng được xem bị cáo có nhân thân xấu do đó cần phải tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Tuy nhiên, cũng xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải vì vậy cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Theo quy định của pháp luật, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, là con nghiện nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 phong bì đã được niên phong trong có chất ma túy đây là vật chứng không được phép lưu hành nên được tịch thu tiêu huỷ, chiếc điện thoại Iphone 5 màu ghi số 0985848181 được xác định không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.
Đối tượng bán ma tuý cho bị cáo, do bị cáo không biết địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra không xác định được, nên không xử lý.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố bị cáo Bùi Quốc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 41; Bộ luật hình sự; Áp dụng các điều 76, điều 99, điều 231, điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội.
Xử phạt bị cáo: Bùi Quốc T – 39 (ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2017.
Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có chứa thành phần Methamphetamine có chữ ký của giám định viên Trương Trọng Việt và đối tượng Bùi Quốc T và biển kiểm soát số 29P1-393.09 và 01 bỉm trẻ em, trả lại bị cáo chiếc di động Iphone 5 màu ghi bên trong điện thoại có số sim 0985848181. Tình trạng đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng số 04/GN-THA ngày 09/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, Hà Nội.
2/ Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đồng.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 201/2017/HSST ngày 31/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 201/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về