Bản án 199/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 199/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 198/2018/HSST ngày 09 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2018/HSST-QĐXX ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Đàm Ngọc V, sinh năm 1991 HKTT: thôn A, xã H, huyện B, tỉnh Hà Giang Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Dân tộc: Cao lan; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông Đàm Văn C (đã chết) và bà Trần Thị Đ, sinh năm 1966 Vợ: Hoàng Thị N, sinh năm 1994 Con: có 01 con sinh năm 2013 Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/9/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa

* Bị hại: Anh Đặng Quang H, sinh năm 1973 (Vắng mặt) Địa chỉ: ngõ 161A, đường nước P- T- TP. Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: khoảng 23 giờ ngày 31/8/2018 tại phòng làm việc của anh Đặng Quang H, giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn A, thuê xưởng sản xuất ở đường D2-1 Khu công nghiệp Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Đàm Ngọc V đã lén lút trộm cắp số tiền 70.000.000 đồng để trong túi xách màu vàng trong tủ gỗ ép ở phòng làm việc của anh H. Sau đó V bắt taxi về quê, đến ngày 06/9/2018 V bị triệu tập lên cơ quan Công an làm việc. Tại đây V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, bản Cáo trạng số 153/CT-VKS ngày 07/11/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để xét xử đối với bị cáo Đàm Ngọc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Buổi tối ngày 31/8/2018 bị cáo đi xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ, BKS 99L3-1091 (là xe của anh Đặng Quang H để cho công nhân lấy phương tiện đi chung) đi uống rượu cùng tổ thợ của công ty A. Sau khi uống rượu, do không có chỗ ngủ nên bị cáo gọi cho anh H xin ngủ lại công ty để hôm sau về quê nghỉ lễ 2/9 thì được anh H đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, bị cáo thấy công ty không có ai nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Bị cáo đi bộ lên tầng 2 phòng làm việc và phòng ngủ của anh H vặn ổ khóa và vào được bên trong. Bị cáo tìm thấy 01 chiếc bật lửa bật soi lên để tìm tài sản thì thấy bên trong 01 tủ gỗ ép không khóa có 01 túi xách bằng vải màu vàng, mở ra bên trong có tiền. Bị cáo lấy chiếc túi này rồi khép phòng lại đi ra ngoài. Bị cáo đếm số tiền trong chiếc túi thấy có 70 triệu đồng gồm 01 cọc tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 cọc tiền mệnh giá 100.000 đồng và 01 cọc tiền lẫn các loại mệnh giá. Bị cáo đi xe của công ty đến gửi ở phòng trọ của anh H, sau đó thuê tăcxi đi về Hà Giang hết 4.000.000 đồng. Đến nhà bị cáo đưa cho mẹ bị cáo 40.000.000 đồng để mẹ bị cáo trả nợ, bị cáo mua 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo A3S hết 5.000.000 đồng và gửi anh Phạm Hữu L là bạn của bị cáo số tiền 10.000.000 đồng. Còn lại 11 triệu đồng bị cáo chi tiêu cá nhân hết. Khi bị bắt, bị cáo đã giao nộp 01 chiếc điện thoại Oppo A3S và anh L đã giao nộp số tiền bị cáo gửi là 10.000.000 đồng. Đối với số tiền 10 triệu đồng bị cáo đề nghị trả lại cho anh H Bị hại anh Đặng Quang H tại cơ quan điều tra trình bày: Đàm Ngọc V là công nhân của công ty anh. Buổi tối trước hôm nghỉ lễ 02/9 anh cho V ở lại công ty ngủ để hôm sau về quê. Sau đợt nghỉ anh mới quay lại công ty thì phát hiện bị mất số tiền 70.000.000 đồng anh để trong tủ phòng làm việc, số tiền này là của anh. Nay anh yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo Cáo trạng số 153/CT-VKS ngày 07/11/2018. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đàm Ngọc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đàm Ngọc V từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày tạm giam 07/9/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của người bị hại và buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Đặng Quang H số tiền là 70 triệu đồng. Tạm giữ số tiền 10 triệu đồng và 01 chiếc điện thoại Oppo A3S màu đen để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo, bị hại không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh và hình phạt áp dụng. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời trình bày của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 31/8/2018 tại phòng làm việc của anh Đặng Quang H, giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn A, thuê xưởng sản xuất ở đường D2-1 khu công nghiệp Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Đàm Ngọc V đã lén lút trộm cắp số tiền 70 triệu đồng để trong túi xách màu vàng trong tủ gỗ ép ở phòng ngủ của anh H. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và dư luận xấu trong xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong nhân dân.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo tuổi đời còn trẻ, từ tỉnh Hà Giang đến địa bàn huyện Tiên Du làm công nhân lại không chịu khó làm ăn mà lợi dụng sơ hở của chính người chủ đã thuê mình làm việc để trộm cắp tài sản và số tiền bị cáo trộm cắp là một số tiền tương đối lớn. Điều đó thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, đối với lần phạm tội này cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, gia đình lại khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo trộm cắp của anh H số tiền 70.000.000 đồng.

Đây là tiền riêng của anh H. Nay anh H có yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền trên là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Đối với số tiền 10.000.000 đồng bị cáo đã gửi anh Lợi và 01 chiếc điện thoại di động Oppo A3s bị cáo mua để sử dụng là tài sản do bị cáo trôm cắp của anh H mà có. Do vậy cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST và DSST theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điều 48 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 357; Điều 584; Điều 585; Điều 589 Bộ luật dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo: Đàm Ngọc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Đàm Ngọc V 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 07/9/2018 Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án 3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Đặng Quang H số tiền 70 triệu đồng. Tạm giữ số tiền 10 triệu đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đen để đảm bảo thi hành án(Theo biên bản giao nhận vật chứng) Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468 BLDS, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 468 BLDS.

Trường hợp bản án này được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 199/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:199/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về