Bản án 198/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 198/2017/HSPT NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26/9/2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công  khai  xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 163/2017/HSPT ngày 01/9/2017 đối với bị cáo Trần Thị Thùy T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2017/HSST ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: TRẦN THỊ THÙY T, sinh ngày 20/6/1978 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 3xx (Tổ 5xx cũ), phường T, quận C, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201336xxx; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Con ông Trần Văn T (s) và bà Nguyễn Thị Kim A (s); có chồng Võ Anh T (không đăng ký kết hôn) và có 02 con: con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có tiền để đi vào thành phố Hồ Chí Minh nên Trần Thị Thùy T nảy sinh ý định mượn xe mô tô của chị Trần Thị Kim H (người thuê phòng cùng khu phòng trọ với T trước đó) để cầm lấy tiền. Khoảng 06 giờ ngày 11/6/2003, T đến phòng trọ của chị H và nói dối chị H cho T mượn xe mô tô BKS 92K9 – 7008 để chở con đi bệnh viện. Chị H tin tưởng nên giao xe cho T. Sau khi mượn được xe, T mở cốp xe và phát hiện 01 giấy đăng ký xe và giấy hẹn nhận chứng minh nhân dân của chị H nên T đi lòng vòng tìm chỗ để cầm xe. Khi đến khu vực phường Q, quận S, T vào nhà chị Nguyễn Thị Kim T1 để hỏi cầm xe. Chị T1 không cầm xe nên điện thoại cho chị ruột là Nguyễn Thị Kim T2 đến cầm xe. Khi chị T2 đến, T đưa 01 giấy đăng ký xe và giấy hẹn chứng minh nhân dân mang tên Trần Thị Kim H và nói đây là xe của mình đem cầm để lấy tiền cấp cứu cho mẹ.Chị T2 đồng ý cầm xe và viết một giấy cầm xe với số tiền 4.500.000 đồng đưa cho T và hẹn 01 tháng sau sẽ chuộc lại xe. Sau khi lấy tiền,T bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Ngày 7/4/2017, T bị bắt theo truy nã.

Tại Kết luận định giá số 44 ngày 16/5/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Sơn Trà xác định 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream BKS 92K9 –7008 có giá trị 4.200.000đồng.

Tại Bản án sơ thẩm số 59/2017/HSST ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 139; Điểm h, p, l Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Trần Thị Thùy T 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 01/8/2017, bị cáo Trần Thị Thùy T có đơn kháng cáo với nội dung: Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi con nhỏ mắc bệnh rối loạn tâm thần và cha mẹ già, sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục hậu quả, người bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó bị cáo mong HĐXX cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất, hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con nhỏ và gia đình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thùy T có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy bị cáo T đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt của chị Trần Thị Kim H 01 xe mô tô BKS 92K9–7008 trị giá 4.200.000đ nên Bản án sơ thẩm số 59/2017/HSST ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét vai trò, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị Thùy T 09 tháng tù là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Thùy T cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự là đúng tội và bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Thị Thùy T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 06 giờ ngày 11/6/2003, tại số nhà 8x đường P, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng, Trần Thị Thùy T đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt của chị Trần Thị Kim H01 xe mô tô biển kiểm soát 92K9-7008 trị giá 4.200.000đồng. Do đó, Bản án sơ thẩm số 59/2017/HSST ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã xét xử bị cáo Trần Thị Thùy T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Xét kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thùy T: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn một thời gian dài gây khó khăn trong công tác điều tra và đã bị bắt theo lệnh truy nã. Do đó, đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, cần thiết cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, p, l khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Các quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bị cáo như Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thùy T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Áp dụng Khoản 1 Điều 139; Điểm h, p, l khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Trần Thị Thùy T 09 (Chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Trần Thị Thùy T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 198/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:198/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về