Bản án 197/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 197/2019/HS-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Trong ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 162/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2019/HSST-QĐ ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Văn T , sinh năm 1985, tại tỉnh N; thường trú: Xóm H, xã LH, huyện KS, tỉnh N; nơi cư trú: 24/2 khu phố ĐT, phường DA, thị xã D A, tỉnh B; nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T và bà: Nguyễn Thị N (chết); Bị cáo có vợ và 01 con, con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 19/4/2006 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; Ngày 13/8/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 09/5/2014 bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm 01 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị bắt tạm giam từ ngày 21/02/2019 (có mặt).

2/ Võ Thanh T, sinh năm 1990, tại tỉnh Đ; thường trú: thôn M, xã I, huyện Cg, tỉnh G; nơi cư trú: 24/2 khu phố ĐT, phường DA, thị xã DA, tỉnh B; nghề nghiệp: làm nông; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Võ Minh H và bà: Trần Thị H; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Ngày 17/4/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không; Bị bắt tạm giam từ ngày 21/02/2019 (có mặt).

Bị hại: Bà Bùi Thị N, sinh năm 1988; địa chỉ: 1301C Tỉnh lộ B, Khu phố H, phường B, quận T, Thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 21/02/2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô biển số 73K6-4948 chở Võ Thanh T ngồi sau đến cửa hàng dép “Ánh Linh” số 1301C Tỉnh lộ B, khu phố H, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để mua giầy dép. Khi đến cả hai đi vào cửa hàng, trong lúc xem giày dép thì Nguyễn Văn T phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu vàng 16G của chị Bùi Thị Ngần là chủ cửa hành đang cắm sạc pin ở cửa ra vào nên nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại. Lợi dụng chị Ngần không để ý, Nguyễn Văn T đi đến lấy trộm điện thoại Iphone 6 giấu vào áo khoác đang mặc rồi đi ra chỗ Võ Thanh T mua dép. Sau khi mua dép xong, Nguyễn Văn T đi ra lấy xe rồi chở Võ Thanh T tẩu thoát về hướng cầu vượt Gò Dưa. Đi được khoảng hơn 1km, Nguyễn Văn T dừng xe lại, lấy điện thoại Iphone 6 vừa lấy trộm ra đưa cho Thanh Tú. Thanh Tú cầm điện thoại và hỏi điện thoại trên ở đâu mà có thì Văn Tú trả lời vừa lấy trộm được tại cửa hàng dép “Ánh Linh” số 1301C Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức giữ lấy rồi đi bán lấy tiền tiêu xài, thì Thanh Tú đồng ý. Thanh Tú liền kiểm tra điện thoại thấy còn hoạt động, sợ bị chủ tài sản phát hiện nên tắt nguồn điện thoại cất vào túi quần giấu. Khi mua thuốc lá xong, Văn Tú đi ra điều khiển xe chở Thanh Tú ngồi sau đi đến trước nhà số 1119, tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức thì bị chị Ngần phát hiện truy hô cùng với quần chúng nhân dân giữ lại cùng vật chứng vụ án chuyển đến Công an phường Bình Chiểu, quận thủ đức xử lý.

Ti Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Văn T , Võ Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản số 2276/UBND-TCKH ngày 19/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức, xác định: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu vàng 16G có giá trị 2.500.000 đồng.

Vt chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu vàng 16G. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức đã trả lại cho chị Bùi Thị Ngần là chủ sở hữu.

- 01xe mô tô hiệu Suzuki Smash biển số 73K6-4948, số máy: 119733, số khung: 030119733. Qua xác minh đứng tên chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Hồng, HKTT: phường Hải Đình, Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hiện nay chị Hồng bỏ địa phương đi đâu không rõ. Nguyễn Văn T khai xe trên Tú mua lại của chị Nguyễn Thị Hoài Thu là chủ cửa hàng cầm đồ vào ngày 13/02/2019. Làm việc với chị Thu xác định xe mô tô biển số 73K6-4948 là do chị mua của người tên Minh (không rõ lai lịch) vào ngày 15/01/2019, sau đó bán lại xe trên cho Tú.

Ti bản Cáo trạng số 39/CT-VKSTĐ ngày 11/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Võ Thanh T về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo qui định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa:

Các bị cáo Nguyễn Văn T , Võ Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố; Các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản”; Võ Thanh T về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đồng thời đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; đim h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Võ Thanh T từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

Các bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, lời sau cùng các bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Khong 10 giờ ngày 21/02/2019, Nguyễn Văn T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu vàng 16G của chị Bùi Thị Ngần đang sạc pin tại cửa ra vào của cửa hàng dép “Ánh Linh”, số 1301C Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó Nguyễn Văn T nói điện thoại do trộm cắp mà có và đưa cho Võ Thanh T bán lấy tiền tiêu xài, Võ Thanh T đồng ý nhưng chưa kịp tiêu thụ thì cả hai bị cáo bị bắt giữ cùng vật chứng. Tài sản bị cáo Nguyễn Văn T chiếm đoạt có giá trị là 2.500.000 đồng.

Li khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Bị cáo Võ Thanh T đã phạm vào tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt qui định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Cả hai bị cáo có nhân thân xấu bị cáo Nguyễn Văn T đã ba lần bị xét xử về hành vi chiếm đoạt tài sản, tuy đã được xóa án tích nhưng cũng cần xem xét khi lượng hình. Bị cáo Võ Thanh T đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý, lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm” nên áp dụng thêm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

[3] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Bùi Thị Ngần đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không xem xét.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Suzuki Smash; biển số 73K6-4948, SM: 119733; SK: 030119733. Do chưa xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nên cần đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe trên, hết thời hạn thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Võ Thanh T phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T: 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2019.

3- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Võ Thanh T : 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2019.

4- Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Giao cơ quan Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, cho đăng tải thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Smash; biển số 73K6-4948, SM: 119733; SK: 030119733. Hết thời hạn nêu trên, nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu xe sung quỹ Nhà nước.

(theo phiếu nhập kho số NKT2019/172 ngày 17/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh)

5- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 197/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:197/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về