Bản án 196/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 196/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 72/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1965. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn Thạch Khê, xã Q M, huyện Q S, tỉnh Q N.

- Bị đơn: Bà Lê Thị Kim Kh, sinh năm 1967. Vắng mặt.

Đa chỉ: Tổ dân phố Hương L, thị trấn H A, huyện Q S, tỉnh Q N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn – ông Nguyễn Văn Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Lê Thị Kim Kh tổ chức xây dựng gia đình vào năm 1985 nhưng không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, vợ chồng ông không hòa Thuận, không hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống. Gần 10 năm nay ông bà không còn chung sống với nhau và ông đã có con riêng hơn 10 tuổi. Nay ông nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên ông yêu cầu ly hôn với bà Kh.

Về con chung: Có 03 cháu tên Nguyễn Lê Thị Thanh K, sinh năm 1986; Nguyễn Lê Hoàng L (đã chết) và Nguyễn Lê Hồng D, sinh năm 1990. Cháu K và cháu D đã trưởng thành, đủ khả năng lao động và đã có gia đình riêng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai và phiên hòa giải ngày 12/3/2020, bị đơn – bà Lê Thị Kim Kh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn Th kết hôn vào năm 1985 nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc và có 03 con chung. Gần 10 năm nay, ông Th sống với người khác và có con riêng nhưng bà vẫn chấp nhận. Nay, ông Th yêu cầu ly hôn thì bà không thống nhất vì bà và ông Th không có xung đột gì và nên sống vì con, vì cháu. Bà đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ.

Tại phiên tòa, bà Lê Thị Kim Kh vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn – bà Lê Thị Kim Kh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn Th có quan hệ hôn nhân thực tế với bà Lê Thị Kim Kh, địa chỉ: Tổ dân phố Hương L, thị trấn H A, huyện Q S, tỉnh Q N. Nay, ông Th khởi kiện xin ly hôn với bà Kh nên quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn”, Thộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa ông Th và bà Kh được xác lập năm 1985, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, lừa dối nhưng không có đăng ký kết hôn; đây là hôn nhân thực tế nên được pháp luật thừa nhận. Trong quá trình chung sống, ông Th và bà Kh đã phát sinh mâu Thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông bà không còn sống chung gần 10 năm nay và ông Th có con riêng hơn 10 tuổi; nay ông không còn tình cảm với bà Kh. Phía bà Kh cho rằng giữa bà và ông Th không có xung đột gì, ông Th sống với người khác gần 10 năm nay và có con riêng nhưng bà vẫn chấp nhận nên bà không thống nhất ly hôn, bà muốn vợ chồng đoàn tụ để sống vì con, vì cháu. Mặc dù đã được hoà giải nhưng ông Th vẫn kiên quyết ly hôn còn bà Kh thì yêu cầu đoàn tụ. Tuy nhiên, tại các phiên tòa bà Kh đều vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ. Điều đó cho thấy mâu Thẫn vợ chồng của ông Th và bà Kh đã trầm trọng, đời sống chung không đạt được và tại phiên toà, ông Th vẫn cương quyết xin ly hôn nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Th.

[4]. Về con chung: Ông Th và bà Kh đều thừa nhận có 03 con chung gồm Nguyễn Lê Thị Thanh K, sinh năm 1986; Nguyễn Lê Hoàng L (đã chết) và Nguyễn Lê Hồng D, sinh năm 1990. Cháu K và cháu D đã trưởng thành, đủ khả năng lao động và đã có gia đình riêng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7]. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm ông Th phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 85, Điều 89, Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội; khon 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc "Ly hôn".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Nguyễn Văn Th và bà Lê Thị Kim Kh.

2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng ông Th phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông Th đã nộp theo Biên lai Th tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001504 ngày 11/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3. Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

407
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 196/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:196/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về