Bản án 194/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 194/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 149/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Qu (tên gọi khác: Qu trọc), sinh năm 1995 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm HM, xã Ngh K, huyện Ngh L, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Số 61/1 đường L Th K, khu phố Đ T, phường Di A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1968; bị cáo có 04 anh em ruột, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 2005; bị cáo cơ vợ tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1995, có 01 con ruột, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2021 cho đến ngày 28/4/2021, được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Quyết định bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị hại: Chị Lê Ngọc H, sinh năm 1964; thường trú: Số M đường C M Th T, Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995; thường trú: Thôn Th H, xã Th H, huyện Th H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

1- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Quốc Đ; vắng mặt.

2. Anh Đỗ Văn H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Lê Ngọc H là chủ cơ sở massage “XK 2” tại địa chỉ số 135 đường Ng Tr, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Vào khoảng tháng 10/2019 chị H quen biết Nguyễn Văn Qu, K và Tr bò (chưa rõ nhân thân, lai lịch), do lo sợ cơ sở massge mới hoạt động bị quậy phá nên chị H thỏa thuận với Tr bò và K mỗi tháng chị H sẽ đưa cho K số tiền 20.000.000 đồng để K bảo vệ cho cơ sở massage của mình. Khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020, chị H đã đưa số tiền 85.000.000 đồng cho K để bảo vệ cho cơ sở massage “XK 2” của chị H. Tuy nhiên, đến tháng 3 năm 2020 thì cơ sở massage của chị H tạm ngưng hoạt động do dịch covid cho đến tháng 5 năm 2020 thì hoạt động trở lại.

Khoảng 22 giờ ngày 16/6/2020, Qu đến cơ sở massage “XK 2” đặt vấn đề với chị H là nếu Qu giới thiệu khách đến massage cho chị H thì chị H phải gửi tiền hoa hồng 10% cho Qu, Quy sẽ bảo vệ cho cơ sở massage của chị H nếu có người đến quậy phá, tuy nhiên chị H nói để chị H suy nghĩ. Đến 22 giờ 18 phút ngày 18/6/2020, Qu điều khiển xe nhãn hiệu Honda wave biển số 38M1-300.80 đến cơ sở massage “XK 2”. Khi đến nơi, Qu dựng xe trước cửa rồi đi vào quầy lễ tân gặp chị H để nói chuyện về việc Qu có giới thiệu khách đến massage cho chị H nhưng chị H không gửi tiền hoa hồng cho Qu. Sau đó, do chị H không đồng ý nên Qu đã dùng tay phải nhặt lấy cái gạt tàn thuốc lá bằng sứ để trên bàn rồi ném xuống mặt bàn làm bể cái gạt tàn. Lúc này, Qu tiếp tục dùng tay phải nhặt thêm một cái gạt tàn thuốc lá bằng sứ màu trắng để trên bàn rồi ném xuống mặt bàn làm bể cái gạt tàn và đe dọa chị H “ngày mai quán đóng cửa, nếu không tôi đến đập quán, đánh người” rồi Qu điều khiển xe mô tô biển số 38M1-300.80 bỏ đi. Số tiền mà Qu yêu cầu chị H đưa là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng)/tháng. Ngày 19/6/2020, chị H đến Công an phường D A trình báo sự việc. Công an phường D A tiếp nhận tin báo của chị H và chuyển giao đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An để giải quyết. Ngày 01/01/2021, Nguyễn Văn Qu đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A để đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A lập biên bản người phạm tội đầu thú.

* Vật chứng thu giữ: Nhiều mảnh vỡ của gạt tàn bằng sứ màu trắng; 01 (một) xe mô tô Honda wave đỏ, đen, bạc biển số 38M1-300.80 và 01(một) USB (được niêm phong trong hồ sơ vụ án).

* Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 182/BB.ĐG ngày 12/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda wave đỏ, đen, bạc biển số 38M1-300.80, số khung 3906HX744057, số máy JA39E0724201 có trị giá 8.000.000 đồng.

Quá trình điều tra bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận định giá tài sản số: 182/BB.ĐG ngày 12/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đối với tên Tr bò và K, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Di A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số: 170/CT-VKS ngày 17 háng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Văn Qu về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Qu về tội “Cưỡng đoạt tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Qu từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với nhiều mảnh vỡ của gạt tàn bằng sứ màu trắng, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01(một) USB (được niêm phong trong hồ sơ vụ án), bên trong có ghi lại hình ảnh Quyền cưỡng đoạt tài sản vào ngày 18/6/2020 nên đề nghị tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 (một) xe mô tô honda wave đỏ, đen, bạc biển số 38M1300.80, số khung 3906HX744057, số máy JA39E0724201 là tài sản chung của bị cáo và vợ tên Nguyễn Thị H. Chị H không biết Qu sử dụng xe vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu ½ giá trị xe mô tô để sung Ngân sách nhà nước và trả lại ½ giá trị xe mô tô trên cho chị Hưng.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Nguyễn Ngọc H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Do bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và về trách nhiệm dân sự đồng thời trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng và những chứng cứ tài liệu thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Ngày 18/6/2020 tại cơ sở massage “XK 2” thuộc địa chỉ số 135 đường Nguyễn Tr, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Văn Qu đã có hành vi đập hai cái gạt tàn bằng sứ xuống mặt bàn làm bể cả hai cát gạt tàn, đồng thời dùng lời nói đe dọa chị Lê Ngọc H (chủ cơ sở massage “XK 2”) nếu muốn cơ sở massage tiếp tục hoạt động thì phải đưa cho Qu số tiền là 2.000.000 đồng/ tháng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Văn Qu đe dọa dùng vũ lực uy hiếm tinh thần của bị hại để chiếm đoạt 2.000.000 đồng/tháng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 170/CT-VKS ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Nguyễn Văn Qu về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản, tinh thần của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi cưỡng đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; sau khi phạm tội bị cáo đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đồng thời bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, thể hiện bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, đang nuôi con nhỏ và là lao động chính trong gia đình nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nghề nghiệp ổn định, có nơi cư trú rõ ràng, bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đồng thời bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện đang nuôi con nhỏ, trong thời gian tại ngoại bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương. Vì vậy, việc không cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian cũng không ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm tại địa phương, nên quyết định áp dụng loại hình phạt tù có điều kiện đối với bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú. Do áp dụng hình phạt tù có điều kiện đối với bị cáo nên cần hủy bỏ Quyết định bão lĩnh số: 16/2021/HSST-QĐBL ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với nhiều mảnh vỡ của gạt tàn bằng sứ màu trắng, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01(một) USB (được niêm phong trong hồ sơ vụ án), bên trong có ghi lại hình ảnh Quyền cưỡng đoạt tài sản vào ngày 18/6/2020 nên cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 (một) xe mô tô Honda wave đỏ, đen, bạc biển số 38M1-300.80, số khung 3906HX744057, số máy JA39E0724201 là tài sản chung của bị cáo và vợ tên Nguyễn Thị H. Chị H không biết Qu sử dụng xe vào việc phạm tội nên cần tịch thu ½ giá trị xe mô tô để sung Ngân sách nhà nước và trả lại ½ giá trị xe mô tô trên cho chị H.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Nguyễn Ngọc H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Đối với tên Tr bò và K, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Di A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý saulà đúng theo quy định của pháp luật.

[12] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt, nhân thân của bị cáo và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[13] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Qu phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 02/2018/NĐ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Qu 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Nguyễn Văn Qu thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Hủy Quyết định bão lĩnh số: 16/2021/HSST-QĐBL ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung tiêu hủy nhiều mảnh vỡ của gạt tàn bằng sứ màu trắng.

- Tịch thu vào Ngân sách Nhà nước ½ (một phần hai) xe mô tô Honda wave đỏ, đen, bạc biển số 38M1-300.80, số khung 3906HX744057, số máy JA39E0724201.

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị H ½ (một phần hai) xe mô tô Honda wave đỏ, đen, bạc biển số 38M1-300.80, số khung 3906HX744057, số máy JA39E0724201.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A với Chi cục thi hành án dân sự thành phố D A).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Văn Qu phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 194/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:194/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về