TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 194/2019/HS-PT NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Mở phiên tòa ngày 27/6/2019, tại trụ sở TAND tỉnh Đăk Lăk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 173/2019/TLPT-HS ngày 23/5/2019, đối với bị cáo Trần Đăng D, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 của TAND huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk.
Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Trần Đăng D, sinh năm 1954 tại tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn A, xã C, huyện M, tỉnh Đăk Lăk; Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Con ông: Trần Đ (Đã chết) và bà: Nguyễn Thị K (Đã chết); Có vợ: Võ Thị N, sinh năm 1956, có 05 con (Con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 1993). Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại: Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau sau:
Trần Đăng D là nhân viên bảo vệ của Hợp tác xã nông nghiệp C, trụ sở tại buôn L, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; một ngày đầu tháng 12/2018, D khóa cửa phòng bảo vệ của hợp tác xã nhưng để quên chìa khóa bên trong phòng bảo vệ, nên D đến nhà ông Nguyễn Đình H là giám đốc hợp tác xã, mượn chìa khóa phòng bảo vệ; ông H đưa cả chùm chía khóa cho D, trong đó có chìa khóa phòng bảo vệ và chìa khóa các phòng của hợp tác xã. Sau khi mở cửa phòng bảo vệ lấy chìa khóa, D nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của hợp tác xã, nên mang chùm chìa khóa đến tiệm sửa chữa khóa của anh Võ Văn S, tại thị trấn Q, huyện M, nhờ anh S lấy mẫu và làm hai chìa khóa phòng Ban quản trị và phòng kế toán của hợp tác xã; sau đó, D mang chùm chìa khóa trả cho ông H.
Đêm 18/12/2018, ông Nguyễn Viết S là Phó giám đốc hợp tác xã, tham gia ca trực tại trụ sở hợp tác xã cùng với D; đến khoảng 05 giờ ngày 19/12/2018, ông S đi về nhà, D ngắt cầu dao điện hệ thống Camera an ninh của hợp tác xã, rồi dùng chìa khóa đã làm sẵn mở của phòng Ban quan trị và phòng kế toán của hợp tác xã. Tại phòng kế toán, D mở ngăn kéo bàn làm việc của chị Nguyễn Thị T, là thủ kho của hợp tác xã; thấy ngăn kéo bị khóa, D dùng chìa khóa của ổ khóa ngăn kéo đã bị hỏng, bỏ ở nhà kho hợp tác xã, mở khóa ngăn kéo bàn làm việc của chị T và mở được ngăn kéo. Thấy bên trong ngăn kéo có cọc tiền 6.400.000đ, D lấy bỏ vào túi quần, rồi khóa ngăn kéo lại, khóa cửa phòng Ban quản trị và phòng kế toán, rồi đóng cầu dao điện hệ thống Camera an ninh.
Đêm 19/12/2018, ông Phạm Chí C1, là tổ trưởng tổ sản xuất của hợp tác xã, tham gia ca trực cùng với D; đến khoảng 06 giờ ngày 20/12/2018, ông C1 đi về nhà; bằng thủ đoạn như lần trước, D mở của phòng kế toán của hợp tác xã, rồi mở ngăn kéo bàn làm việc của chị Nguyễn Thị N và lấy số tiền 21.000.000đ trong ngăn kéo.
Ngày 22/12/2018, chị T và chị N đã làm đơn trình báo với cơ quan công an về việc mất tiền; ngày 04/01/2019, D thừa nhận với anh Nguyễn Đức D1 về việc trộm cắp tiền tại hợp tác xã và nhờ anh D1 đưa D đến cơ quan công an đầu thú.
Bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm số: 19/2019/HSST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar đã áp dụng: Khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Xử phạt: Trần Đăng D 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, quyết định án phí và tuyên quyền kháng cáo.
Ngày 20/4/2019, bị cáo Trần Đăng D có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Đăng D khai nhận: Bị cáo là nhân viên bảo vệ Hợp tác xã nông nghiệp C; khoảng 05 giờ ngày 19/12/2018, bị cáo dùng chìa khóa đã làm sẵn, mở cửa phòng kế toán của hợp tác xã và mở ngăn kéo bàn làm việc của chị Nguyễn Thị T trong phòng kế toán, lấy số tiền 6.400.000đ; khoảng 06 giờ ngày 20/12/2018, bị cáo tiếp tục mở cửa phòng kế toán của hợp tác xã và mở ngăn kéo bàn làm việc của chị Nguyễn Thị N trong phòng kế toán, lấy số tiền 21.000.000đ.
Tại phiên tòa đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk cho rằng: Bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo Trần Đăng D phạm tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Trong thời gian bị cáo công tác tại xã Th, huyện H, tĩnh Hà Tĩnh, được tặng thưởng bằng khen, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo là thiếu sót. Tuy nhiên, mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là thỏa đáng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Xét lời khai của bị cáo Trần Đăng D tại phiên tòa phúc thẩm, là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại và lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng được thu giữ và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[2] Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Trần Đăng D là nhân viên bảo vệ của Hợp tác xã nông nghiệp C; Do động cơ vụ lợi, khoảng 05 giờ, ngày 19/12/2018, D đã dùng chìa khóa đã làm sẵn, lén lút mở cửa phòng kế toán của hợp tác xã, rồi mở ngăn kéo bàn làm việc của chị Nguyễn Thị T, chiếm đoạt 6.400.000đ của chị T. Khoảng 06 giờ ngày 20/12/2018, D tiếp tục lén lút mở cửa phòng kế toán của hợp tác xã và chiếm đoạt 21.000.000đ của chị Nguyễn Thị N, để trong ngăn kéo bàn làm việc tại phòng kế toán.
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử Trần Đăng D phạm tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét mức hình phạt 09 tháng tù, mà Tòa án cấp sơ thẩm xử Trần Đăng D là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, khi hành vi phạm tội của bị cáo chưa bị ai phát hiện nhưng bị cáo đã nói cho anh Nguyễn Đức Dũng, là em họ của bị cáo nghe về việc bị cáo trộm cắp tài sản và nhờ anh Dũng đưa bị cáo đến cơ quan công an tự nguyện khai báo về hành vi phạm tội của mình và đưa điều tra viên, giao lại số tiền đã chiếm đoạt, để trả lại cho người bị hại. Trong thời gian bị cáo công tác tại xã Thạch Hãi, huyện Thạch Hà, tĩnh Hà Tĩnh, bị cáo đã có thành tích xuất sắc trong công tác, được tặng thưởng bằng khen; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, được quy định tại các điểm b, r, v khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo là thiếu sót. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo, để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Đăng D, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, r, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt: Trần Đăng D 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Trần Đăng D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 194/2019/HS-PT ngày 27/06/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 194/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về