Bản án 193/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 193/2019/HSST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 198/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:227/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Trương Văn H, giới tính: Nam, sinh năm 1986 tại tinh Bắc Giang; Hộ khẩu thường trú: Thôn G, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Chỗ ở: phương A, quân B , Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn H và bà Nguyễn Thị S; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Chu Thị P, có 01 ngươi con sinh năm 2014; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Tạm giam: 28/12/2018, HBBPTG: 06/01/2019; (có mặt).

2/ Tòng Văn C, giới tính: Nam, sinh năm 1998 tại tỉnh Lai Châu; Hộ khẩu thường trú: Xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu; Chổ ở: phương A, quân B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc:Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam Con ông Tòng Văn C và bà Lò Thị L; Hoàn cảnh gia đình : Chưa co vơ , con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Tạm giam: 28/12/2018, HBBPTG: 06/01/2019; (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 ngày 27/12/2018, Công an quận Gò Vấp kiểm tra, bắt quả tang tại khách sạn Hoàng Hà tại địa chỉ: 723 Tân Sơn, phường 12, quận Gò Vấp do Trương Văn H làm chủ và Tòng Văn C đang làm lễ tân, có hành vi chứa mại dâm tại 03 phòng khách sạn gồm:

Phòng 102: Trịnh Thị L - sinh năm: 1993 HKTT: Khánh Hòa là gái bán dâm và Nguyễn Hoàng N – sinh năm: 1985 HKTT: phường 13, quận T, là người mua dâm.

Phòng 201: Võ Thị Trí T - sinh năm: 1988 HKTT: Khánh Hòa, là gái bán dâm và Nguyễn Minh T – sinh năm: 1992 HKTT: Bình Dương, là người mua dâm.

Phòng 202: Ngô Thị Kiều T - sinh năm: 1978 HKTT: Khánh Hòa, là gái bán dâm và Nguyễn Văn V – sinh năm: 1977 HKTT: Hà Nội, là người mua dâm.

Tại Cơ quan điều tra, Trịnh Thị L, Võ Thị Trí T và Ngô Thị Kiều T đều khai là gái bán dâm, hàng ngày đứng trước khách sạn Hoàng Hà để bắt khách mua dâm, khi có khách đồng ý mua dâm thì đưa vào khách sạn Hoàng Hà để thực hiện hành vi mua bán dâm, việc thuê phòng khách sạn Hoàng Hà để bán dâm được sự đồng ý của Trương Văn H và Tòng Văn C, mỗi lần bán dâm từ 250.000 đồng đến 300.000 đồng, tiền thuê phòng khách mua dâm trả, bao cao su do khách sạn cung cấp. Những người mua dâm: Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Minh T và Nguyễn Văn V khai: khoảng 21 giờ ngày 27/12/2018, sau khi cùng uống bia thì rủ nhau đi đến đường Tân Sơn tìm gái để mua dâm, khi đến trước khách sạn Hoàng Hà thấy một số gái bán dâm đang đón khách thì tới hỏi và thỏa thuận giá một lần mua dâm là 300.000 đồng và được gái đưa và khách sạn Hoàng Hà để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi vào khách sạn gặp Tòng Văn C lấy 03 phòng thì Nguyễn Văn V do có điện thoại nên T và N cùng 02 gái mại dâm lên phòng trước, khi vừa quan hệ tình dục xong thì bị Công an kiểm tra mời về làm việc, riêng Nguyễn Văn V và Ngô Thị Kiều T vừa mới lên phòng 202 thì bị kiểm tra cùng mời về làm việc.

Trương Văn H thuê lại khách sạn Hoàng Hà từ tháng 12/2016 để kinh doanh khách sạn. Khoảng từ đầu tháng 12 năm 2018 do kinh doanh ế ẩm nên H đồng ý cho gái bán dâm thuê phòng để thực hiện hành vi mua bán dâm với giá là 50.000đồng/01 lượt/phòng và cung cấp miễn phí bao cao su. Để thực hiện hành vi chứa chấp mại dâm tại khách sạn Hoàng Hà thì H giao nhiệm vụ cho C sắp xếp phòng và thu tiền, khi nào C nghỉ thì H trực tiếp làm. Trong thời gian thực hiện hành vi chứa mại dâm, H thu lợi bất chính được số tiền là 8.100.000 đồng.

Tòng Văn C được H thuê làm nhân viên lễ tân từ tháng 10/2018 và trả lương 5.000.000 đồng/tháng, có nhiệm vụ nhận khách và giao phòng cho khách, việc gái bán dâm đưa khách vô khách sạn thuê phòng để thực hiện hành vi mua bán dâm thì C biết và là người trực tiếp thu tiền phòng 50.000 đồng/lần. Các gái bán dâm bị phát hiện ngày 27/12/2018 thì Cường đều quen mặt do thường đứng bắt khách mua dâm gần khách sạn Hoàng Hà nên khi thuê phòng C không yêu cầu đưa giấy chứng minh nhân dân. Ngoài H và C thì các nhân viên khác không biết trong khách sạn có chứa mại dâm.

Vật chứng:

- 02 bao cao su đã qua sử dụng;

- Số tiền 600.000 đồng (300.000 đồng của L, 300.000 đồng của T là tiền bán dâm).

- Số tiền 8.100.000 đồng thu lợi bất chính do Trương Văn H giao nộp.

Đi với Trịnh Thị L, Võ Thị Trí T và Ngô Thị Kiều T Cơ quan điều tra xử lý hành chính về hành bán dâm.

Đi với Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Minh T và Nguyễn Văn V, Cơ quan điều tra xử lý hành chính hành vi mua dâm.

Tại bản cáo trạng số 111A/Ctr-VKS, ngày 29/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố các bị cáo Trương Văn H, Tòng Văn C về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 327; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Trương Văn H từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm - Xử phạt bị cáo Tòng Văn C từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm - Phạt mỗi bị cáo 10.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 8.700.000 đồng;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đi chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Trương Văn H, Tòng Văn C đã phạm vào tội “Chứa mại dâm” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 327 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bỡi lẽ, các bị cáo đã xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, đến đời sống văn hóa xã hội mà Nhà nước ta đã và đang xây dựng phát triển rộng rãi trong đời sống của nhân dân. Hành vi của các bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội nói chung và tại địa phương nói riêng. Ngoài ra, hành vi chứa mại dâm của các bị cáo còn tạo điều kiện cho những căn bệnh truyền nhiễm có điều kiện tồn tại và lây lan phát triển, tác động xấu đến lối sống đạo đức và truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và còn gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình của nhiều người thậm chí còn có thể gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình ly tán. Chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh bất chấp mọi hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật, thể hiện ý thức của các bị cáo rất xem thường pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy việc xử lý các bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Cần thiết phải có mức án thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm tạo điều kiện giúp cho các bị cáo học tập cải tạo sau này biết tôn trọng pháp luật và trở thành người tốt hơn có ích cho xã hội và cũng nhằm có tác dục răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thiệt hại gây ra không lớn để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu. Tại phiên tòa hôm nay, Viện kiểm sát đề nghị cho các bị cáo được hưởng án treo. Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, các bị cáo phạm tội với ý thức bộc phát nhất thời, có nơi cư trú rõ ràng việc cho các bị cáo được tại ngoại chấp hành hình phạt không gây nguy hiểm cho xã hội và thời gian được cho tại ngoại cho đến nay không có hành vi vi phạm pháp luật nào khác, Hội đồng xét xử nhận thấy nên tạo điều kiện cho bị cáo được hưởng mức hình phạt có thời gian thử thách phù hợp với tính nhân đạo của pháp luật nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đối với người mới phạm tội lần đầu mà biết ăn năn hối cải.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 327 của Bộ luật Hình sự Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên quyết định phạt mỗi bị cáo 10.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 bao cao su đã qua sử dụng là tang vật vụ án không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với số tiền 600.000 đồng (của L và T là tiền bán dâm) và 8.100.000 đồng của H và C khai nhận thu lợi được từ việc chứa mại dâm là tiền thu lợi bất chính Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6] Đối với Trịnh Thị L, Võ Thị Trí T và Ngô Thị Kiều T Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính về hành bán dâm là có cơ sở.

Đi với Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Minh T và Nguyễn Văn V, Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính hành vi mua dâm là có cơ sở.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Văn H và bị cáo Tòng Văn C phạm tội “Chứa mại dâm”;

Căn cứ khoản 1 Điều 327; điểm h,s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trương Văn H 01 (một) năm tù. Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn C 01 (một) năm tù. Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp các bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể ra quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 5 Điều 327 Bộ luật Hình sự;

Buộc bị cáo Trương Văn H và bị cáo Tòng Văn C mỗi bị cáo nộp phạt số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung quỹ nhà nước ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 8.700.000 (tám triệu bảy trăm ngàn) đồng.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong bên trong có 02 bao cao đã qua sử dụng.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng 96/PNK, ngày 23/4/2019, phiếu nhập kho vật chứng 97/PNK, ngày 23/4/2019 và phiếu nhập kho vật chứng 100/PNK, ngày 25/4/2019 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Dân sự;

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu các bị cáo Trương Văn H và Tòng Văn C không nộp số tiền phạt nêu trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định tại khỏan 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Áp dụng Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Mi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

c bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:193/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về