Bản án 193/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 193/2017/HSST NGÀY 14/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Trung tâm Văn hóa thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 189/2017/HSST ngày 25 tháng 8 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 229/2017/HSST-QĐ ngày 30-8-2017, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K, sinh năm 1992 tại thành phố Cần Thơ; nơi ĐKNKTT: 219 khu vực, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ; chỗ ở: 26/16, khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương; trình độ văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 và bà Phạm Thị R, sinh năm: 1969; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2017 cho đến nay. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 11-5-2017, tại phòng trọ số 33 của nhà trọ số 26/16, khu phố B, phường B, thị xã T, trong lúc bị cáo Nguyễn Văn K đang bán 01 gói ni lon hàn kín hai đầu, bên trong có chất màu trắng (nghi là ma túy) với giá 500.000 đồng cho Nguyễn Văn N thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Qua khám xét tại phòng trọ của bị cáo còn thu giữ 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy gồm 01 chai thủy tinh nhỏ và 01 ống thủy tinh.

Theo Bản kết luận giám định số 252/GĐ- PC54B ngày 17/05/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể giám định có chất ma túy Methamphetamine, trọng lượng là 0,1266 gam, hàm lượng là 66,07%, do đó trọng lượng Methamphetamine là 0,0836 gam.

Bản Cáo trạng số 211/QĐ-KSĐT ngày 25/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến gì về nội dung bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố đối với bị cáo.

Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 02 năm đến 02 năm 09 tháng tù.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 11 tháng 5 năm 2017, trong lúc bị cáo đang buôn bán 01 gói ma túy Methamphetamine có trọng lượng 0,0836 gam cho Nguyễn Văn N với giá 500.000 đồng tại phòng trọ số 33 của nhà trọ số 26/16, khu phố B, phường B, thị xã T thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố tình thực hiện, đi mua ma túy về bán lại cho người khác nhằm thu lợi bất chính, hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương, lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.

Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

Đối với Nguyễn Văn N là người mua ma túy của bị cáo để sử dụng, Cơ quan Điều tra đã xử lý hành chính là đúng quy định.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ:

- 0,0756 gam ma túy Methamphetamine chứa trong 01 bì thư niêm phong số 252/PC54 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương là chất cấm lưu hành, 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy (gồm 01 chai thủy tinh nhỏ và 01 ống thủy tinh) không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO là phương tiện phạm tội và số tiền 500.000 đồng do phạm tội mà có nên tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11-5-2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003; Tịch thu, tiêu hủy: 0,0756 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định chứa trong 01 bì thư niêm phong số 252/PC54 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy.

Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO và số tiền 500.000 đồng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16-8-2017 và ủy nhiệm chi ngày 14/8/2017).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:193/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về