Bản án 192/2017/HSST ngày 27/11/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 192/2017/HSST NGÀY 27/11/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 11 năm 2017, tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 169/2017/HSST ngày 04 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Phạm Văn H (tên gọi khác: Phạm Văn C), sinh ngày 04/01/1976 tại L; nơi đăng ký hộ khẩu thường trsu: Tổ 5, khối 10, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Số 32, ngõ 2, đường N, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ văn hoá: 3/12; con ông Phạm Quang V và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ Nguyễn Thuỳ D, sinh năm 1980 và có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2012; tiền sự: Ngày 28/8/2014 bị Công an huyện H, tỉnh Lạng Sơn xử phạt hành chính về hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lẩu với số tiền 7.500.000đ; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 31/8/2015 đến 02/10/2015 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện bị cáo tại ngoại, có mặt.

Lý lịch bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa đúng với lý lịch bị can và danh chỉ bản số 138 do Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn lập ngày 02/9/2015.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau: 

Khoảng 02 giờ 15 phút ngày 31/8/2015, tổ Công tác Công an thành phố Lạng Sơn bắt quả tang Nguyễn Mạnh T và Phạm Văn H đánh bạc dưới hình thức chơi "sâm" tại nơi ở của T, địa chỉ: Tổ 3, khối 9, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Khám xét tại nhà của Nguyễn Mạnh T thu giữ nhiều túi ni lon có chứa ma tóy Methamphetamine, 01 khẩu súng côn tự chế và một số tài sản, đồ vật khác.

Quá trình điều tra đã xác định được tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 23.540.000đ, trong đó của Phạm Văn H là 1.650.000đ và của Nguyễn Mạnh T là 21.800.000đ.

Cáo trạng số 09/KSĐT-TA, ngày 28 tháng 12 năm 2015 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự và tội "Đánh bạc" theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội "Đánh bạc" theo quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53; Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn H 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội " Đánh bạc", thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T 48 tháng tù về hai tội "Đánh bạc" và " Tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/01/2016, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có kháng nghị số 18/2017/KN-HS, đề nghị hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đối với Phạm Văn  H để xét xử sơ thẩm lại và không cho Phạm Văn H được hưởng án treo.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 160/2017/HS-GĐT ngày 09/8/2017 đã hủy bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt đối với Phạm Văn H. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại không cho Phạm Văn H được hưởng án treo. Các quyết định khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn H thừa nhận: Bị cáo và Nguyễn Mạnh T đã thực hiện hành vi đánh bạc với hình thức đánh sâm tại nhà của T, địa chỉ tổ 3, khối 8, phường Đ, thành phố L vào đêm 31/8/2015 với số tiền đánh bạc là 23.540.000đ, trong đó số tiền của Nguyễn Mạnh T là 21.890.000đ, số tiền của bị cáo là 1.650.000đ.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 31, Điều 53 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ; thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Đề nghị không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm, tài sản và thu nhập.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo

XÉT THẤY

Về tội danh: Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã tuyên bố bị cáo Phạm Văn H (tức C) phạm tội "Đánh bạc". Nội dung này không có kháng cáo kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.

Về hình phạt: Hành vi của bị cáo xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trên cơ sở đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo. Mặt khác, bị cáo có bố là ông Phạm Quang V và mẹ là Nguyễn Thị T được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân huy chương. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Ngày 28/8/2014 bị cáo bị Trưởng Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền về hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu; ngày 08/9/2014 bị cáo chấp hành hình phạt; ngày 31/8/2015 bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc. Vì vậy, tính đến thời điểm phạm tội bị cáo không thuộc trường hợp được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Mặc dù, bị cáo có nhân thân thân không tốt nhưng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng. Mặt khác, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng và được chính quyền địa phương xác nhận chấp hành đầy đủ pháp luật, không có biểu hiện tái phạm. Vì vậy, từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội mà để bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Việc không bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù giam không ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa về loại hình phạt và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử.

Do bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 33 ngày (từ ngày 31/8/2015 đến 02/10/2015) nên thời hạn tạm giữ, tạm giam sẽ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ; theo quy định 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Vì vậy 33 ngày tạm giữ tạm giam bằng 99 ngày (tức 03 tháng 09 ngày) cải tạo không giam giữ.

Kết quả xác minh tại nơi Đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú của bị cáo cho thấy: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và tài sản nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ thu nhập và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo nhưng bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 09/2016/HSST ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53, Điều 31 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H (tức Phạm Văn C) 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ đi 03 tháng 09 ngày; thời gian cải tạo không giam giữ mà bị cáo còn phải chấp hành là 08 tháng 21 ngày được tính từ ngày cơ quan tổ chức được giao giám sát giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Buộc bị cáo thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Phạm Văn H cho Uỷ ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 LuậtThi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2017/HSST ngày 27/11/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:192/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về